Bào chế các vị thuốc
Hotline

Bào chế các vị thuốc

Trong cùng một dược liệu có thể phải tách ra các bộ phận dùng khác nhau với tác dụng thậm chí trái ngược nhau như Ma hoàng (rễ và thân), Trắc bá diệp (lá và hạt); Câu kỷ tử (vỏ rễ và quả)....


 
BẠCH BIỂN ĐẬU   白 扁 豆
  1/ Theo Trung Dược Đại Tự Điển: Lấy hạt Biển đậu có vỏ cứng , để nguyên cả vỏ, sao chín, dùng. Có khi tẩm vào nước  sôi cho tróc vỏ, bỏ hết vỏ, dùng.
  2/ Theo cách bào chế của Việt Nam:
  - Thường dùng thứ hạt nguyên, có sống, khi bốc thuốc thang thì giã dập.
  - Dùng chín : Rửa, để ráo nước  rồi sao qua cát để khỏi cháy, khi bốc thuốc thang thì giã dập.   
BÁCH BỘ   百 部
1/  Đào lấy củ già rửa sạch cắt bỏ rễ 2 đầu, đem đồ vừa chín, hoặc nhúng nước sôi, củ nhỏ để nguyên, củ lớn bổ đôi, phơi nắng hoặc tẩm rượu, sấy khô (Bản Thảo Cương Mục).
2/  Rửa sạch, ủ mềm rút lõi, xắt mỏng phơi khô, dùng sống. Tẩm mật một đêm rồi sao vàng [dùng chín] ( Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
BẠCH CHỈ   白 芷
1/  Hái Bạch chỉ về, cạo sạch vỏ, thái nhỏ, lấy Hoàng tinh ( số lượng bằng nhau), cho vào nồi, đồ 1 lúc, lấy Bạch chỉ ra, phơi khô, dùng. Hoặc hái về, rửa sạch, cắt ra từng khúc, trộn với vôi, phơi khô. Khi dùng cho vào thuốc thì sao qua. có thể sao cháy hoặc tẩm giấm, sao (Trung Dược Đại Từ Điển).
2/  Rửa qua cho sạch, ủ 3 giờ cho mềm. Thái nhỏ, phơi trong râm cho khô. Không sao tẩm gì (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược – Việt Nam).
3/ Rễ củ thu hái lúc trời khô ráo, trước lúc mưa to kéo dài. Đào rễ và cắt cho bằng đầu, tránh làm sây sát vỏ và gẫy rễ. Không thu hái ở cây đã kết hạt. Loại bỏ rễ con, rửa nhanh sau đó sấy Lưu huỳnh  rồi phơi ở nhiệt độ 40-50o (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
 
BẠCH CƯƠNG TẰM   白 殭  蠶
 
1/  Ngâm nước vo gạo nếp 1 ngày đêm cho nhớt và dầu nổi lên mặt nước, vớt ra, sấy khô bằng lửa nhỏ, chùi sạch lông vàng và miệng đen, tán bột, dùng ( Lôi Công bào chích luận). 
2/  Vào giữa tháng 4-5, chọn những con Tằm chết cứng do bị nhiễm vi khuẩn, đem phơi nơi có gió hoặc phơi nắng, cho vào bình hút ẩm có chứa vôi sống hoặc sấy cho khô hoặc ngâm nước vo gạo 1 đêm , quấy nhẹ tay cho tơ và nhớt ra hết, vớt ra, phơi hoặc sấy khô. Hoặc rắc cám vào nồi (cứ 10kg Cương tằm, dùng 1kg cám), đun nóng cho bắt đầu bốc khói, cho Cương tằm vào, sao cho đến khi vàng, sàng bỏ cám đi, để nguội   (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). 
3/  Sao với cát nhỏ cho vàng lên hoặc sao vàng với rượu sấy khô ( Đông Dược Học Thiết Yếu).
4/  Hiện nay, thường sản xuất Bạch cương tằm bằng cách lựa tằm đủ tuổi (4-5cm) rồi phun khuẩn nấm Batrytis Bassiana Bals lên mình tằm.
 
BẠCH MAO CĂN   白 茅 根
 
Rễ rửa sạch, loại bỏ vết lông và rễ con, cắt ngắn từng đoạn 2-3cm, đem phơi hay sấy khô tới độ ẩm dưới 12%. Cắt lấy cả lông để dùng dần. Không dùng rễ nổi lên mặt nước.
BẠCH THƯỢC   白 芍
 
Ở Triết Giang thu hoạch sớm nhất khoảng mùng 10 tháng 6. Tứ Xuyên vào giữa tháng 7 lúc thời tiết nóng và thu hoặc có thể kéo dài cho tới cuối mùa hè thì xong. An Huy vào cuối hè đầu thu. Hồ Nam vào tiết lập thu. Khi thu hoạch, chọn ngày nắng ráo, đất khô, trước hết cắt thân lá sau dùng cuốc bới quanh gốc để lấy rễ, chú ý để khỏi gẫy. Lấy rễ giũ sạch đất, cắt riêng từng rễ ra, dùng dao con cắt hết những rễ con, rễ phụ mọc từ rễ chính. Sau đó phân loại lớn nhỏ. Nếu sau khi thu hoạch gặp mưa không phơi được vùi rễ vào đất cát ẩm nhưng không được để quá 2-3 ngày, phơi nắng cho khô thứ chắc rắn là tốt.
1/ Lấy dao tre cạo thật sạch vỏ ngoài, tẩm nước mật loãng trong 3 giờ rồi phơi khô (Lôi Công Bào Chế).
2/ Rửa sạch ngâm nước 1-2 giờ, ủ 1-2 ngày có thể đổ rồi bào hay xắt mỏng, sao qua, có khi tẩm giấm sao qua hay sao cháy cạnh, hoặc tẩm rượu sao qua (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
3/ Cách bào chế của Tứ xuyên: Dùng một nồi hoặc chảo to, đổ nước đã đun sôi vào, bỏ rễ Bạch thược vào cho ngập hết Rễ, không được cho rễ vào quá nhiều, nước không đủ ngập. Sau đó loại rễ to đun khoảng 10-15 phút, nếu đun quá lâu sau này cạo bỏ vỏ sẽ hao phí nhiều, nhưng nếu đun rễ chưa chín lượng dược liệu giảm. Thường người ta xác định độ chín khi luộc bằng cách khi chưa luộc có mùi tanh của đất, vị đắng nhưng khi chín có mùi thơm, bớt đắng. Có thể dùng móng tay bấm được là chín. Luộc xong vớt ra ngay cho vào nước nguội để khỏi chín quá, sau dễ bóc vỏ. Cạo vỏ bằng cách dùng thanh tre cật vót cạo hết lớp vỏ ngoài cho đến lớp vỏ trắng. Khi cạo vỏ phát hiện có những chỗ sâu bệnh cần gọt vỏ, và phải cạo nhẹ tay để lớp vỏ bỏ đi không bị hao hụt nhiều. Cạo vỏ xong, cắt bỏ đầu đuôi, cắt thành khúc dài 10-13cm rồi xếp thẳng đem phơi (Trung Dược Đại Từ Điển).
Phơi rễ chia làm 3 giai đoạn:
- Phơi nhiều, ủ nhiều: rải Bạch thược ra chiếu, hoặc phân đan phơi nắng cứ 20 phút trở một lần, đến giờ chiều đem vào xếp thành đống trên phủ chiếu, ngày mai lại đem phơi, tối lại ủ, phơi ủ như vậy 4-5 ngày là xong, và chuyển sang giai đoạn hai.
- Phơi ít, ủ nhiều: Hàng ngày đến 9 giờ mới đem phơi, 3 giờ chiều cất vào ủ. Khi ủ đối với loại rễ to và trung bình thì phải ủ chiếu kín hoặc bao tải. Khi phơi cứ 30-40 phút trở một lần và ủ thấy rễ mềm ra lại đem phơi, cứ như vậy 8-10 ngày là xong và chuyển sang giai đoạn 3.
- Phơi ngắn ủ dài: Mỗi ngày chỉ phơi 2-4 giờ, cách 40 phút trở 1 lần, còn ủ như trên nhưng phải ủ 3-4 lớp bao tải, ủ cho đến khi lớp vỏ ngoài của rễ ướt lại, sau đó đem phơi cho đến khi lớp vỏ thật khô, bấm móng tay không được nữa mới thôi. Theo cách chế biến này thì ngày mùa hè phơi ít ủ nhiều, ngàu mùa thu phơi nhiều ủ nhiều, ủ cho rễ mềm ra lại phơi, phơi xong rễ còn đang nóng ủ luôn, nếu chỉ phơi không ủ thì bên ngoài rễ khô, bên trong còn ướt, để biến sang vị chua không dùng làm thuốc được, hoặc bên ngoài vỏ biến thành đỏ chất lượng kém.
4) Cách bào chế của Sơn Đông: Dùng dao tre cạo vỏ ngoài cho thật trắng nhưng không rửa nước để rễ không biến thành màu nâu hoặc đen. Cạo vỏ xong ngâm rễ ngập trong nước giếng nửa ngày rồi mới luộc, ngâm rễ ngày nào thì luộc rễ ngày đó. Ở Tứ Xuyên có nơi ngâm nước giếng pha trộn 50% nược sông thêm loại rễ nhỏ Bạch thược đã giã nát, hoặc dùng bột ngô hòa với nước để ngâm rễ Bạch thược, ngâm như vậy rễ giữ được màu (Danh Từ Dược Vị Đông Y).
Luộc: Đun nước sôi đổ rễ Bạch thược vào, đun khoảng 15-20 phút, khi thấy rễ mềm, vặn cong được hoặc lấy rễ thấy bốc hơi, khô nhanh thì vớt ra. Mỗi chảo nước chỉ luộc 2-3 mẻ rồi phải thay nước mới. Sau đó cắt bỏ đầu đuôi, chia thành loại to, nhỏ, cắt ra thành khúc đem phơi.
Phơi: Luộc xong rải ra chiếu phơi ngay, cách 5-10 phút đảo 1 lần sau 1-2 giờ lấy chiếu cuộn lại phủ chiếu lên trên, khi thấy rễ nguội lại tiếp tục rải ra phơi, phơi trong 3 ngày buổi trưa nắng gắt phủ chiếu lại cho mát. Phơi cho đến khi gõ rễ nghe tiếng kêu thanh thanh, chất thành đống đem ủ 2-3 ngày lại phơi tiếp 1-2 ngày cho tới khi thật khô, phơi vậy vỏ không bị co lại và không chuyển qua màu hồng (Danh Từ Dược Vị Đông Y).
 
 
BẠCH TRUẬT   白 朮
 
 Theo Trung Dược Đại Tự Điển :
1) Thái rửa sạch, ngâm nước 4 giờ, ủ kín 12 giờ (hay có thể đồ khoảng 4 giờ) cho mềm, thái hay bào mỏng, phơi khô (để dùng sống) hay tẩm bột Hoàng thổ rồi mới phơi khô sao vàng, hoặc tẩm nước gạo đặc sao vàng. Có khi chỉ cần thái mỏng, sao cháy.
2) Theo kỹ thuật chế biến của Trung Quốc hiện nay có hai phương pháp: Sấy khô và Phơi khô. Thành phẩm của phương pháp sấy khô gọi là Bạch truật sấy, của phương pháp sau gọi là Bạch truật phơi. Ư truật là một loại củ phơi khô.
a) Phơi khô: Đem củ tươi rủ sạch đất cát, cắt bỏ cây lá, đem phơi 15-20 ngày, đến lúc khô kiệt thì thôi nếu gặp phải trời mưa thì nên rải ra chỗ râm mát, thoáng gió, không nên dồn đống hoặc đóng vào sọt... nếu không củ dễ thối mốc.
b) Sấy khô: Đem củ đã đào về chọn lọc kỹ, đưa lên giàn sấy khô. Lò sấy thông thường mỗi lần có thể sấy được 250 củ tươi. Lúc bắt đầu sấy cần to lửa và đều, về sau khi vỏ củ đã nóng thì lửa nên nhỏ dần, sấy khô 5-6 giờ đảo trên xuống dưới, dưới lên trên, để củ có thể khô đều, sau đó lại sấy 6 giờ, đến lúc củ khô được 50% đem cắt, rửa củ cho dẹp, cắt bỏ rễ phụ, phân chia loại to nhỏ, củ to bỏ xuống dưới, nhỏ bỏ trên, để được khô đều. Sấy vậy 8-12 giờ lúc củ khô độ 70-80% đem vào sọt ủ 10-15 ngày, chờ cho nước trong giữa củ ngấm thấm ra ngoài, vỏ ngoài mềm ra, lúc này có thể sấy lại lần cuối cũng thời gian độ 24 giờ. Các nơi ở tỉnh Hồ nam, Hồ bắc sau khi sấy khô, lại đổ củ vào rổ sát cho vỏ bong sạch. Nói chung cứ 3, 5 kg củ tươi, sau khi sấy khô có thể thu được 1 kg củ khô.
. Chải, rửa sạch, ủ kín cho đến mềm, thái hoặc  bào mỏng 1-2 ly, phơi khô (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
. Sau khi bào, phơi tái, tẩm nước  Hoàng thổ ( thường dùng ) hoặc  tẩm mật sao vàng (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
. Sau khi thái mỏng, sao cháy (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).    
 
 
BA KÍCH THIÊN   巴 戟 天
 
1/ Dùng nước Câu Kỷ Tử ngâm Ba Kích 1 đêm cho mềm, lấy ra ngâm rượu 1 đêm, vớt ra, sao với Cúc Hoa cho vàng thuốc, dùng vải lau sạch, để dành dùng      (Lôi Công Bào Chích Luận).
2/  Ngâm với rượu 1 đêm cho mềm, xắt nhỏ, sấy khô, để dành dùng ( Bản Thảo Cương Mục).
3/  Dùng Cam Thảo, giã dập, sắc, bỏ bã. Cho Ba Kích vào nấu cho đến khi xốp mềm, rút lõi, phơi khô. Liều lượng : 6kg Cam Thảo cho 100kg Ba Kích (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Dược Điển)
4/ Diêm Ba Kích : Trộn Ba Kích với nước Muối (20g Muối cho 1kg Ba Kích), cho vào chõ, đồ, rút lõi, phơi khô (Trung Dược Đại Từ Điển).    
5/  Rửa sạch , ủ mềm, bỏ lõi, thái nhỏ rồi tẩm rượu 2 giờ, sao qua hoặc nấu thành cao lỏng [1ml = 5g] (Phương Pháp  Bào Chế Đông Dược Việt Nam).
 
 
CAM THẢO    甘 草
1/ Sinh thảo: Rửa sạch nhanh đồ mềm, xắt thành lát mỏng 2mm, khi còn nóng nếu không kịp xắt thì nhúng ngay vào nước lạnh, ủ mềm cho dễ xắt, rồi sấy hoặc phơi khô (Trung Dược Đại Từ Điển).
2/ Chích thảo: Sau khi sấy khô rồi tẩm mật ong (cứ 1kg Cam thảo phiến thì dùng 200g mật pha thêm 200ml nước đun sôi), tẩm rồi sao vàng cho thơm. Hoặc nếu dùng ít, có thể cắt khúc 5-10cm cuộn vài lần giấy bản nhúng qua nước sôi cho đủ ướt, vùi vào tro nóng, khi thấy giấy khô hơi sém thì bỏ giấy, xắt lát mỏng (Trung Dược Đại Từ Điển).
3/ Bột Cam thảo: Cạo sạch vỏ ngoài xắt miếng tròn sấy khô tán thành bột mịn.
+ Khi dùng Cam thảo nếu dùng rượu tẩm chưng từ giờ tỵ (9-11g) đến giờ ngọ (11 – 13g) rồi lấy ra phơi nắng, giã nát để dùng (Lôi Công Bào Chích Luận) hoặc xắt lát lấy sữa tẩm rồi sao giòn, đỏ, vàng mà dùng ((Bản Thảo Cương Mục).
+ Chích Cam thảo đều dùng nước chảy dòng sông sao tẩm đến khi nóng vàng, khử đỏ đi là được hoặc dùng nước tương sao nóng, không có sữa tô để sao thì chưng với rượu (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Theo kinh nghiệm Bào chế của Trung Quốc ngày xưa có 3 cách thức:
a) Phấn cam thảo: Cạo sạch vỏ, ngâm rượu độ 1 giờ, ủ độ 12 giờ, xắt mỏng chừng 2 ly. Phơi khô.
b) Lão cam thảo: ngâm nước độ 4 giờ (mùa đông 8 giờ) ủ kín cho mềm xắt mỏng phơi khô.
c) Chích cam thảo: Rửa qua ủ mềm, xắt mỏng, lấy mật ong cho thêm một phần nước sôi tẩm vào Cam thảo vớt  ra một lúc sao vàng không dính tay là đạt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Cách dùng: Dùng sống có tác dụng  thanh hỏa trong những chứng đau họng, đinh nhọt. Dùng chích (sao mật) có tác dụng  bổ trung, chữa những chứng Tỳ hư, tiêu lỏng, Vị hư khát nước, Phế hư gây ho. Tẩm mật sao có Tác dụng nhuận bổ.
 
CÁT CĂN   葛 根
 
(1) Khúc củ: Ở Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến (Trung Quốc) người ta đem củ về rửa sạch, lấy dao cạo sạch lớp vỏ thô xốp ở ngoài, xong cắt thành những đoạn ngắn 13cm, xếp vào trong vại, dùng nước muối đặc (Cứ 100 đoạn Sắn dây thì dùng 5kg muối pha với 10 kg nước), ngâm nửa ngày. Sau lại pha thêm một ít nước (ngâm nước lúc ngập củ là được) ngâm đủ 1 tuần thì vớt ra, dùng sọt đem ra sông ngâm 3-4 giờ vớt ra rửa sạch, phơi 2-3 ngày (Khô đi độ 6-7 phần) lại bỏ vào hòm, xông Lưu hoàng trong hai ngày đêm, làm cho củ mềm và trong, tất cả thành màu trắng bột không có lõi vàng nữa, thì có thể lấy đem phơi thật khô để dùng hay bán. Có lúc phải dùng xông đi xông lại 3 lần, mỗi lần mất 1 ngày, phơi hai ngày. Qua ba lần xông ba lần phơi như vậy rất phức tạp, lại khó xông cho củ trở thành trắng trong, theo kinh nghiệm thì nếu loại củ nào xông một lần mà trong ruột củ trắng trong là tốt nhất.
(2) Khoanh  củ: Ở tỉnh Tứ Xuyên, tức là sau khi gọt bóc vỏ ngoài ra, cắt thành miếng vuông dầy 1,7-3cm, đuôi củ nhỏ chỉ cắt khúc, sau khi dùng Lưu hoàng xông thì đem sấy khô ngay là được.
(3) Miếng vuông: Cũng là một cách chế biến của tỉnh Tứ Xuyên, tức là sau khi gọt bóc vỏ ngoài ra, cắt thành miếng vuông dầy (cạnh) 1,7-3cm, sau khi xông Lưu hoàng xong đem sấy khô ngay là được.
(4) Ngoài ra có nơi đào về bóc bỏ lớp vỏ bên ngoài, cắt thành khúc dài 8-15cm nếu đường kính quá lớn thì bổ dọc thành 2 nửa, có khi cắt lát thành từng miếng dầy 0,5-1cm xông Lưu hoàng 3 lần, sau đó ngày phơi nắng, tối sấy Lưu hoàng cho tới khô. Nếu muốn lấy bột thì say nhỏ gạn lấy tinh bột lọc đi lọc lại nhiều lần rồi sấy hoặc phơi khô.
(5) Cách chế bột sắn dây: Cạo vỏ xay giã cả củ nát bấy, lọc lấy nước ở trong đổ nước lạnh vào rồi  lấy khăn mà lọc cho sạch xác, bụi bặm, đất, cát căn rồi để lắng xuống mới gạn lọc nước trên cứ như thế mỗi ngày thay nước một lần, mỗi khi đổ nước vào một lần phải lọc những nước đục đi, gạn lọc như thế 1 tháng đến khi nào thấy nước trong khuấy không đục nữa thì thôi. Lọc càng kỹ bột nước mới khỏi chua, chát, bột trắng, nhưng phải thay nước hàng ngày, bột không chua. Khi đã xong đổ bột ra miếng vải băng để trên sạp khô phơi thành bột cất dùng.
CÁT CÁNH     桔 梗
Dùng Cát cánh nên bỏ đầu cuống, giã chung với Bách hợp sống, giã nát như tương, ngâm nước 1 đêm xong sao khô (Lôi Công Bào Chích Luận).
Dùng Cát cánh cạo vỏ ngoài, tẩm nước gạo 1 đêm, xắt lát sao qua (Bản Thảo Cương Mục).
Hiện nay dùng củ đào về cắt bỏ thân mềm rửa sạch ủ một đêm, hôm sau sắc lát mỏng phơi khô dùng sống, có khi tẩm mật sao qua (Tùy theo đơn). Khi dùng làm hoàn tán thì nên xắt lát, sao qua rồi tán bột mịn (Trung Dược Đại Từ Điển).
 
 
CÂU ĐẰNG   鉤 藤
Khi dùng cắt bỏ cành của nó đi, chỉ dùng toàn những móc câu thôi, dùng được móc non càng tốt, không cần lấy thứ già, loại non sức mạnh hơn loại già.
Cách dùng: Dùng vào thuốc thang thì nên để riêng, sau khi sắc thuốc gần được mới cho Câu đằng vào. Hoặc tán bột dùng trong cao đơn hoàn tán. Nhức đầu chóng mặt dùng gai mấu, đau thần kinh tọa dùng rễ cây.
 
 
CÂU KỶ TỬ  枸 杞 子
 
1/   Lựa thứ quả đỏ tươi, tẩm rượu vừa đều để một hôm, giã dập rồi đem dùng.
2/  Thường dùng sống, có khi tẩm rượu sấy khô, hoặc tẩm mật rồi sắc lấy nước đặc, sấy nhẹ cho khô, đem tán bột mịn.
 
CẨU TÍCH    狗 脊
Lấy về rửa sạch cắt bỏ rễ con, cuống lá và lông vàng phủ xung quanh thân rễ,
xắt mỏng phơi khô. Có khi đồ hơi nước rồi mới phơi, làm vậy nhiều lần. Có khi lại còn đồ với đậu đen, đồ 9 lần, phơi 9 lần rồi cuối cùng xắt mỏng phơi khô.
. Rang cát nóng cho Cẩu tích đã xắt lát, rang cho sém hết lông còn sót lại, lấy ra để nguội rửa sạch ngâm nước 1 đêm rồi đồ kỹ cho mềm, tẩm rượu 1 đêm rồi sao vàng (Lôi công). Xắt lát sao hết lông rồi dùng (Lý Thời Trân).
 
 
CHỈ THỰC   枳 實
Giấp nước vào cho mềm,  moi bỏ các múi và hạt ở trong rồi xắt nhỏ phơi khô sao với gạo nếp hoặc cám (rồi bỏ cám đi), có khi sao cháy tồn tính rồi tán bột.
Cách dùng: Sao dòn có tác dụng  tiêu tích, hạ khí, trừ đờm  giúp tiêu hóa, sao tồn tính có tác dụng  cầm máu. Chỉ thực để lâu năm càng tốt.
 
 
CHỈ XÁC   枳 殼
 
Đem thấm nước cho mềm, bỏ xác múi và hạt ở trong đi rồi xắt mỏng phơi khô trộn sao với nếp hoặc cám cho tới khi gạo vàng hoặc cám gần cháy đen rồi bỏ đi, lấy Chỉ xác, Chỉ xác để lâu càng tốt.
 
 
CHI TỬ   枝 子
1/  Hái trái về bỏ tai và vỏ, chỉ lấy hạt, ngâm với nước sắc Cam thảo một đêm, vớt ra phơi khô tán bột dùng (Lôi Công Bào Chích Luận).
2/ Trị bệnh ở thượng tiêu, trung tiêu thì dùng cả vỏ xác, trị hạ tiêu thì bỏ vỏ xác rửa sạch nước màu vàng rồi sao mà dùng, trị bệnh thuộc huyết thì sao đen
dùng (Đan Khê Tâm Pháp).
3/  Sau khi hái về phơi hoặc sấy khô ngay, nếu sấy thì lúc đầu lửa to về sau nhỏ dần, đảo trộn nhẹ để làm vỏ quả không bị trầy sát, cũng đề phòng tình trạng ngoài khô trong ướt, dễ thối mốc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
4/  Quả chín kẹp lẫn với ít phèn chua, cho vào nước sôi cùng nấu độ 20 phút, vớt ra phơi khô vỏ, lại sấy khô cho giòn. Khi dùng muốn dùng sống, sao hoặc đốt cháy tùy từng trường hợp (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
 
 
CỐT TOÁI BỔ    骨 碎 補
 
Rửa sạch bỏ lá phơi khô, đốt nhẹ cho cháy hết lông nhỏ phủ trên rễ hoặc đồ chín, phơi khô cất dùng.
Khi dùng lấy dao bằng đồng cạo lông vàng đỏ, xắt lát nhỏ, tẩm mật chưng một đêm rồi phơi khô dùng, nếu dùng gấp thì sậy khô không chưng cũng được (Lôi Công).
 
 
DÂM DƯƠNG HOẮC    淫 羊 藿
1/ Dâm Dương Hoắc: Lấy kéo cắt hết gai chung quanh biên lá, cắt nhỏ như sợi tơ to, rây sạch mảnh vụn là dùng được.
2/ Chích Dâm dương hoắc:  Dùng rễ và lá, cắt hết gai chung quanh rồi dùng mỡ dê, đun cho chảy ra, gạn sạch cặn, cho Dâm dương hoắc vào, sao qua cho mỡ hút hết vào lá, lấy ra ngay, để nguội là được [Cứ 50kg lá dùng 12,5kg mỡ Dê] (Lôi Công Bào chế).
3/ Rửa sạch, xắt nhỏ, phơi khô, sao qua. Có thể tẩm qua rượu rồi sao qua càng tốt.
4/  Lúc hoa mới chớm nở, hái về, phơi nắng nhẹ hoặc phơi trong râm, dùng tươi tốt hơn.
5/  Muốn để được lâu thì xông hơi Lưu hoàng 2-3 giờ, thấy hoa chín mềm là được, rồi đem nén độ một đêm, thấy nước đen chảy ra, phơi khô cất dùng.
 
 
ĐẠI HOÀNG    大 黃
Đem nguyên củ ngâm vào nước lạnh, vớt ra rồi ủ vải bố ướt, sau 2-3 ngày xem thấy ở giữa lõi mềm tới rồi thì lấy xắt hoặc bào lát mỏng phơi khô. Khi dùng có thể dùng sống sao với rượu, sao cháy đen, hoặc chưng...tùy theo lương y.
Phép chế Đại hoàng có nhiều cách:
1/ Đem Đại hoàng chưng với rượu cho nát, phơi nắng, rồi tán bột, dùng mật trộn vào chế thành từng viên nhỏ, phơi khô (Trung Dược Đại Từ Điển).
2/ Dùng Đại hoàng phiến thêm rượu chưng mấy lần là được (Dược Tài Học).
3/ Ngâm thuốc sống vào nước cho mềm, lấy ra, thái thành phiến, phơi khô. Dùng sống hoặc sao với rượu, hoặc sao thành than hoặc hấp chế (Đông Dược Học Thiết Yếu).
 
 
ĐÀO NHÂN   桃 仁                
 
Một loại còn nguyên vỏ và đầu nhọn, khi dùng giã dập.
Một loại đã bóc vỏ và bỏ đầu nhọn di, khi dùng giã dập.
 
ĐỊA CỐT BÌ   地 骨 皮                                          
1- Sau khi cắt thành từng đoạn ngắn bằng nhau, sắc nước Cam thảo ngâm một đêm rồi vớt ra sấy khô (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Luận).
2- Chọn vỏ không còn lỏi, rửa sạch, xắt nhỏ phơi khô dùng sống, có khi tẩm rượu sấy qua (Trung Dược Học).
ĐỖ TRỌNG   杜 仲
 
1- Gọt bỏ vỏ dày bên ngoài, mỗi cân dùng chừng 120g mật ong và 40g sữa tô, hòa đều, tẩm kỹ
rồi sao cho thật khô là được (Lôi Công Bào Chích Luận).
2 - Gọt bỏ vỏ dày ngoài rồi xắt miếng nhỏ, tẩm nước muối sao cho đứt tơ là được (Bản Thảo Cương Mục).
3 - Tẩm với rượu 40o trong 2 giờ sao vàng cho tới khi đứt tơ là được (Trung Dược Học).
4 - Rửa sạch, cạo bỏ vỏ thô ở ngoài, cắt từng lát nhỏ 3-5kg, đeo nhau, tơ không thể cắt được, như da rắn, phơi khô sẽ xấu, để vậy dùng sống hoặc ngâm rượu (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
 
 
ĐƠN BÌ   丹 皮
 
1/ Rửa sạch, dùng dao con rạch một đường theo chiều dọc của rễ, bóc lấy vỏ bỏ lõi, cắt thành đoạn dài 13 - 17cm ngâm vào nước sạch từ 10 - 15 phút, vớt ra sấy khô. Có thể không cạo bỏ vỏ ngoài, chỉ bỏ lõi, khi dùng tẩm nước ủ mềm, xắt lát, phơi khô dùng, có khi tẩm rượu sao qua,hoặc sao cháy tùy đơn thuốc (Trung Dược Đại Từ Điển).
2/ Mua về rửa sạch bụi bặm, ủ mềm một đêm, nếu còn lõi thì bỏ đi. Bào lát mỏng phơi trong râm mát. Có thể tẩm rượu, sao cháy tùy theo đơn.
 
ĐỘC HOẠT   獨 活
1/ Thái nhỏ, lấy Dâm dương hoắc trộn lẫn vào, ủ kín trong 2 ngày, phơi khô rồi bỏ Dâm dương hoắc đi, để dùng cho khỏi xót ruột (Lôi Công Bào Chích Luận).
2/ Khi dùng cạo bỏ lớp vỏ hoặc sấy khô để dùng (Bản Thảo Cương Mục).
3/ Hiện nay thì sau khi thu hái, phơi khô, khi dùng rửa sạch để ráo nước bào mỏng phơi khô trong râm mát. Không cần sao tẩm gì cả (Đông Dược Học Thiết Yếu).
 
 
HẠNH NHÂN   杏 仁
1/ Tẩm nước nóng, chà sạch vỏ, ngắt bỏ đầu nhọn, sao vàng, hoặc sao qua vơi cám (Biệt Lục).
2/ Có thể để nguyên cả vỏ và đầu đầu nhọn, mục đích để phát tán (Bản Thảo Cương Mục).
3/ Ngâm nước sôi 5 - 10 phút, xát bỏ vỏ, phơi khô. Khi bốc thuốc, đâm dập rồi bỏ vào sắc (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Trị hư lao, ho lâu năm thì giã dập rồøi bọc trong giấy bản ép bỏ dầu.
- Dùng rơm khô một nắm, đem hạt Hạnh nhân gói vào trong đó, cuộn lại rồi dùng chầy giã nhưng không được mạnh quá dễ làm vỡ nhân hạt, xong lắy  Hạnh nhân ra phơi khô, ngâm nước sôi rồi lột bỏ vỏ và đầu nhọn. Khi dùng giã nát (Trung Dược Đại Từ Điển).
 
 
HẬU PHÁC   厚 撲
1/ Rửa sạch nhanh, cạo bỏ vỏ thô, xắt lát mỏng 2 - 3 ly, tẩm nước sữa tô (cứ 1 cân Hậu phác thì sao với 120g sữa tô), sao chín để dùng trong hoàn tán. Nếu dùng trong thuốc thang để uống thì dùng nước cốt gừng (cứ 1 cân Hậu phác thì sao với 8 lượng nước gừng) cho khô (Lôi Công Bào Chích Luận).
2/ Cạo bỏ vỏ thô, rửa qua, lấy 2 vị Gừng sống, Tô diệp trộn vào, nấu chín rồi bỏ Gừng và Tô diệp đi, cắt phiến,  phơi trong râm cho khô để dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
HOÀNG BÁ    黃 柏
1/ Hoàng bá tính hàn mà chìm, dùng sống thì tả thực hỏa, dùng chín khỏi hại tới dạ dày, chế với rượu trị bệnh ở thượng tiêu, chế với nước trị bệnh ở hạ tiêu, chế với mật trị bệnh ở giữa (Bản Thảo Cương Mục).
2/ Rửa sạch, vớt ra, ủ mềm, xắt thành sợi, phơi khô (Dược Tài Học).
3/ Cạo gọt bỏ lớp vỏ thô, thái phiến, dùng sống hoặc chế với rượu, hoặc chế Gừng, hoặc sao đen thành than, hoặc tán nhỏ (Đông Dược Học Thiết Yếu).
4/ Diêm Hoàng Bá: Xắt thành sợi xong, tẩm nước muối cho ướt đều[50kg Hoàng bá, dùng 1,4kg Muối, pha nước vừa đủ], dùng lửa nhỏ sao già, lấy ra, phơi khô (Dược Tài Học).
5/ Tửu Hoàng bá: Hoàng bá xắt thành sợi xong tẩm với rượu (100kg Hoàng bá, 10kg Rượu), trộn đều, dùng lửa nhỏ sao qua, lấy ra, phơi khô (Dược Tài Học).
6/ Hoàng Bá Thán: Hoàng bá xắt thành sợi xong, cho vào sao to lửa thành mầu đen xám nhưng còn tồn tính, phun nước cho ướt rồi bẻ ra, phơi khô (Dược Tài Học).
Cách dùng:
Rưả sạch ủ mềm, thái mỏng phơi khô (dùng sống), tẩm rượu sao vàng, hoặc sao cháy hay sao với nước muối, hoặc tán bột đắp bên ngoài.
a) Dùng sống: Trị nhiệt lỵ, đi tả, lâm lậu, hoàng đản, xích bạch đới.
b) Tẩm rượu sao: Trị mắt đau, miệng lở loét.
c) Sao cháy: Lương huyết, chỉ huyết.
d) Sao nước muối: Vào kinh Thận.
 
 
HOÀNG CẦM   黃 芩
1- Hoàng cầm dùng rượu sao thì khí nó đi lên, sao với nước tiểu thì khí nó đi xuống, sao với nước mật Lợn thì tả hỏa ở can đởm. Chữa những chứng nóng thường thì dùng sống (Bản Thảo Cương Mục).
2- Thứ Khô cầm (có tác dụng  tả phế hỏa), làm tiêu khí nóng ở da thịt) thì bỏ đầu, bỏ ruột đen rửa sạch, ủ kín một đêm cho mềm, bào mỏng, 1-2 ly. Phơi khô dùng sống. Sau khi phơi khô tẩm rượu 2 giờ sao qua (cách này thường dùng) (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
3- Hấp chín bào mỏng phơi khô, dùng sống, sao với rượu, sao với Muối, sao với nước Gừng, sao với mật Heo tùy theo phái của Thầy thuốc.
4- Trị bệnh ở phần trên thì sao với rượu. Tả hỏa ở Can, Đởm thì sao với nước mật heo (Đông Dược Học Thiết Yếu).
 
 
HOÀNG KỲ     黃 耆
1- Cắt bỏ đầu, đồ lên nửa ngày, tước ra sợi nhỏ để lên mặt đá đập dập mà dùng (Lôi Công bào chích luận).
2- Đập dập nát, tẩm mật Ong sao 3 lần, có khi tẩm muối đồ chín (Bản Thảo Cương Mục).
3- Rửa sạch, ủ hơi mềm, xắt hoặc bào mỏng 1-2 ly.  Sấy nhẹ hoặc phơi cho khô (dùng sống). Hoặc sau khi làm khô đập nát tước nhỏ, tẩm mật rồi sao vàng (cách này hay dùng gọi là Chích hoàng-kỳ). Hoặc ngâm mật Ong loãng 2-3 ngày cho thấm rồi quấn giấy bản lùi vào tro, nếu làm ít, hoặc sao vàng.( Trung Dược Đại Từ Điển).
HOÀNG LIÊN   黃 連
1/ Cho Hoàng liên vào trong túi vải, xát cho sạch lông giã mát dùng, hoặc ngâm trong nước tương 2 giờ vớt ra, sấy khô bằng gỗ liễu để dùng (Lôi Công Bào Chích Luận).
2/ Chải sạch rửa tạp chất (không nên ngâm lâu sẽ mất chất), ủ đến vừa mềm, thái mỏng phơi trong râm cho khô (dùng sống) hoặc tẩm rượu sao qua [dùng chín] (Trung Dược Đại Từ Điển).
 
HÒE HOA    槐 花
 
1- Dùng Hòe hoa phải dùng vào lúc hoa chưa nở, để lâu năm càng tốt. Khi dùng vào thuốc thì sao vàng để dùng.
2- Hái hoa lúc còn nụ, phơi hay sấy khô, dùng sống hay sao hơi vàng để pha nước uống, hoặc cho vào nồi đất đun to lửa sao cháy tồn tính 7/10, để cầm máu (Trung Dược Đại Từ Điển).
3- Bỏ cành lá, lấy nụ hoa cho vào thuốc sắc uống, hoặc sao cháy thành than dùng hoặc tán nhỏ cho vào thuốc hoàn tán (Đông Dược Học Thiết Yếu).
4- Hòe Hoa Sao: Lấy Hoa hòe sạch, cho vào nồi, sao bằng lửa nhẹ cho đến khi mầu hơi vàng, lấy ra để nguội là được (Dược Tài Học).
5- Hòe Hoa Thán: Lấy Hoa hòe, cho vào nồi, dùng lửa mạnh đun nóng, sao cho đến khi gần thành mầu đen (tồn tính), phun ướt bằng nước sạch, lấy ra, phơi khô (Dược Tài Học).
 
ÍCH MẪU THẢO    益 母 草
1- Thu hoạch lúc cây bánh tẻ ( chớm ra hoa), cắt lấy cây, để chừa 1 đoạn gốc cách mặt đất khoảng 5-10cm để cây tiếp tục đâm chồi thu hoạch lần thứ 2, thứ 3. Lúc trời khô ráo, cắt cây, phơi nắng hoặc sấy nhẹ cho khô.
2- Rửa sạch, bằm nát, tẩm rượu hoặc giấm, sao vàng (dùng trong thuốc thang), hoặc nấu thành cao đặc. Tránh dùng dụng cụ bằng sắt (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
 
KÊ HUYẾT ĐẰNG   雞 血 藤
Rửa sạch, thái phiến, dùng sống ( Đông Dược Học Thiết Yếu).
Chọn thứ dây lớn và bé để riêng, ngâm thứ lớn độ 3 ngày, thứ bé ngâm 1~2 giờ cho mềm, thái lát dày 2 ly, phơi khô
KHƯƠNG HOẠT  姜 活
Theo Trung Y: Cắt bỏ đầu, cạo vỏ, rửa sạch, sấy khô dùng (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
Thấm nước cho mềm đều, thái phiến mỏng, phơi khô (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Rửa sạch, để thật ráo, thái mỏng, phơi râm. Không có tẩm sao.
 
KINH GIỚI   荊 芥
1/ Bỏ tạp chất, rửa sạch, thái từng đoạn, phơi khô để dùng. Hoặc cho Kinh giới vào nồi, chảo, sao đen, phơi khô, để dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
2/ Chặt ngắn, phơi hoặc sấy nhẹ đến thật khô, hoặc sao cháy (Dược Liệu Việt Nam).
 
 
LỘC NHUNG   鹿 茸
 
1/ Dùng dây trói hươu, treo cao khỏi mặt đất. Dùng cưa, cưa thật nhanh vào gần sát đế sừng. Nhặt bỏ các chất bẩn bao quanh nhung đi, sau đó, lấy dây buộc chặt phần đầu cưa lại. Cho đầu nhung cắt vào nồi nước  sôi 3-4 lần , mỗi lần 15-20 phút, đến khi có bọt ở miệng cắt và nhung có mùi lòng đỏ trứng gà luộc chín thì thôi. Thường khoảng 2-3 giờ. Sau đó phơi hoặc  sấy khô. Ngày hôm sau lại làm như vậy. Sấy ở nhiệt độ 70-80oC trong vòng 2-3 giờ rồi lấy ra. Làm  như vậy    2-3 lần cho thật khô là được (Trung Dược Đại Từ Điển).
2/ Sách Đông Dược Học Thiết Yếu giới thiệu cách chế biến đơn giản như sau:
Đốt cháy lông tơ, lấy mảnh thủy tinh cạo sạch rồ tẩm rượu nóng cho mềm, thái thành từng phiến, phơi khô để dùng.
3/ Cưa lấy nhung từ chỗ cách đế nhung 3cm. Nhung cắt được cần chế biến ngay vì với máu và chất thịt để lâu có thể bị thối rữa và có dòi bọ. Đem cặp nhung ngâm vào rượu 1 đêm.  Khi ngâm chú ý để chỗ cắt lên trên cho chất tốt trong nhung không ra hết vào rượu. Hôm sau, rang cát cho vừa, đổ vào 1 cái ống , ở giữa để cặp nhung ( để chỗ cắt lên phía trên ). Khi cát nguội lại đổ ra thay cát mới rang vào.   Mỗi lần thay cát lại nhúng nhung vào rượu cho rượu thấm vào. Làm như vậy cho đến khi sừng khô. Cất đi để dùng. Hoặc chỉ tẩm rượu vào nhung  rồi sấy khô. Khô rồi lại tẩm rượu và lại sấy khô cho đến khi nhung khô kiệt là được. Việc chế biến đòi hỏi khoảng 2-3 ngày. Một cặp nhung nặng 800g khi khô chỉ còn chừng 250g. Tuy nhiên khi chế biến nếu không cẩn thận nhung có thể bị nứt, máu chảy ra hết, giá trị làm thuốc sẽ giảm (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
 
NHÃN NHỤC   龍 眼 肉
 
Chọn loại Nhãn lồng đã chín, cùi dày, ráo nước , đem phơi nắng to hoặc  sấy nhẹ ở nhiệt độ 40-500C đến khi lắc quả có tiếng kêu lóc cóc, mang ra, bóc vỏ lấy cùi rồi sấy ở nhiệt độ 50-600C tới độ ẩm dưới 18%, cầm không dính tay là được. Long nhãn đã chế biến rồi nhưng sợ để lâu có nhiễm trùng, nên đem chưng cách thủy độ 3 giờ, sấy gần khô. Nếu dùng làm thuốc hoàn thì giã nát với bột thuốc khác hoặc  nấu nhừ lấy nước  đặc, bỏ bã, cô đặc lẫn với mật mà luyện thuốc hoàn.
 
 
MẠCH MÔN   麥 門
1/ Tẩm nước nóng cho mềm, rút bỏ lõi. Muốn tán bột thì sau khi rút bỏ lõi, sao nóng, để nguội, làm như vậy 3-4 lần thì khô dòn, tán bột được (Lôi Công Bào Chích Luận).
2/ Chu mạch môn: Lấy Mạch môn cho vào chậu, phun vào ít nước cho hơi
mềm. Lấy bột mịn Chu sa rắc đều vào và trộn đều cho mặt ngaòi dính đều bột Chu sa thì thôi. Lấy ra phơi khô là được (Dược Tài Học).
3/ Rửa sạch cho nhanh (không ngâm nước lâu), để ráo nước cho se vỏ, dùng nhíp cùn rút bỏ lõi. Củ to thì bổ đôi, phơi khô hoặc sao qua, dùng (Dược Liệu Việt Nam).
 
MẠCH NHA    麥 芽
Theo Trung Y: Dùng thứ lúa mạch hột to, ngâm vào nước cho mềm thấu, vớt ra để ráo nước, ủ độ 5 - 6 ngày cho hấp hơi nóng, mọc mầm rồi phơi khô, khi dùng làm thuốc thì sao cho giòn, xát bỏ vỏ.
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Ta không có và cũng không nhập mạch nha, nên chỉ dùng đại mạch, sao qua cho vàng để dùng.
 
 
MA HOÀNG   麻 黃
1/ Cắt bỏ rễ, nấu sôi 10 dạ, vớt bỏ bọt, dùng (Lôi Công Bào Chế).
2/ Nấu giấm sôi, phơi khô (Lôi Công Bào Chế).
3/ Tẩm mật, sao. Trước hết cho 1 ít nước vào mật, quấy đều, đun sôi, trộn đều Ma hoàng sạch, thái đoạn với nước mật, sao nhỏ lửa đến khi không dính tay là được (Đông Dược Học Thiết Yếu).
4/ Thân cắt khúc 1-2 cm (dùng sống). Tẩm mật loãng hoặc tẩm giấm sao qua (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
 
 
MỘC HƯƠNG   木 香
1/  Dùng để điều khí thì dùng sống. Nếu muốn cho ruột sáp lại thì bọc bột, nướng chín dùng (Bản Thảo Cương Mục).
2/ Lấy rễ ngâm nước, vớt ra, trên ủ vải ướt. Khi nước ngấm vào mềm đều, thái phiến, phơi khô, dùng sống hoặc trộn với bột mì bọc lại, đem nướng lên dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
3/ Rửa sạch, phơi trong râm cho khô. Thái mỏng, tán bột. Khi dùng, cho vào nước thuốc đã sắc xong rồi, quấy đều, uống. Hoặc mài với nước thuốc thang đã sắc rồi, uống (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
 
MỘC QUA    木瓜
1/ Lấy Mộc qua đã khô, tẩm nước ủ một ngày đồ mềm, vừa đồ vừa thái (để nguội thì cứng lại), phơi khô dùng sống hoặc tẩm rượu sao (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
2/ Dùng dao bằng đồng bóc bỏ vỏ và hạt, trộn với sữa bf 3 giờ rồi phơi khô để dùng (Dược Phẩm Vậng Yếu).
3/ Quả chín hái về, cho vào nước sôi đun khoảng 5~10 phút, lấy ra, phơi hoặc sấy cho vỏ nhăn, cắt dọc thành 2~4 miếng, phơi cho vỏ chuyển thành mầu đỏ là được (Trung Dược Học).
4/ Ngâm nước một ngày, cho vào chõ hấp mềm, vừa hấp vừa thái phiến (nếu để nguội sẽ cứng, khó thái, thái ra bị vỡ vụn) (Đông Dược Học Thiết Yếu).
5/ Bổ đôi, rửa sạch ủ một đêm, thái mỏng phơi khô. Dùng ít, đập dập (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
 
NGẢI DIỆP    艾 葉
1/ Phơi khô giã nát, bỏ gân xanh, cho vào ít bột lưu hoàng (lưu hoàng ngải), dùng để cứu; cho ít bột gạo thì dễ giã nhỏ, dùng để uống (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
2/ Ngày Đoan ngọ (5-5 âm lịch), giờ Mùi (13-15g) ra vườn, lặng yên không nói gì cả, cắt Ngải diệp đem về, phơi trong râm cho khô. Càng để lâu càng tốt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
3/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Rửa sạch, thái ngắn phơi khô. Khi dùng ngải để cứu (ngải nhung) thì phải sao qua, tán bột bỏ xơ.
Dùng tươi thì rửa sạch giã vắt lấy nước uống.
 
 
NGA TRUẬT   莪   朮
1/ Lấy chậu sành có đáy nhám đổ giấm vào mài Nga truật cho hết xong hơ trên than lửa cho khô rồn lấy bột ấy dùng (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
2/ Lùi vào tro nóng cho chín mềm, giã nát nhỏ, tẩm dấm sao (Bản Thảo Cương Mục).
3/ Đồ chín rồi phơi khô, xắc mỏng rồi phơi, hoặc trước khi xắc mỏng ngâm dấm (cứ 600g Nga truật ngâm với 160g dấm và 160ml nước), đun đến cạn, mang ra bào mỏng phơi khô. Nếu tứ chế được như Hương phụ thì càng tốt (Dược Tài Học).
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Củ tươi: rửa sạch, thái lát phơi khô. Khi dùng tẩm giấm hoặc nước đồng tiện một đêm, sao qua.
Củ khô: rửa sạch, đồ nhanh cho mềm rồi thái lát, tẩm sao như trên.
Tán bột (sau khi đã tẩm sao) để làm hoàn tán.
Bào chế như Hương phụ tứ chế thì rất tốt.
 
 
NGŨ GIA BÌ   五 加  皮
Theo Trung Y: Lấy vỏ rễ ngũ gia bì khô rửa sạch, ủ mềm, thái lát, tẩm rượu hoặc tẩm nước gừng (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Vỏ lột về rửa sạch, cạo bỏ vỏ thô ở ngoài, phơi râm, ủ lá chuối 7 ngày (thỉnh thoảng đảo cho đều) để dậy mùi thơm, rồi lấy ra phơi nhẹ cho khô. Khi dùng thì lại rửa qua nếu bẩn, thái ngắn. Sấy nhẹ cho khô, không phải tẩm sao (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
Bóc vỏ, rửa sạch, phơi khô trong râm. Dùng sống hoặc rửa rượu rồi sao (Đông Dược Học Thiết Yếu).
NHÂN TRẦN CAO    茵 陳 膏
Theo kinh nghiệm Việt Nam:
1/ Dùng ít, thu hái về rửa sạch,.phơi râm nơi thoáng gió cho khô, để lên giàn bếp để Bảo quản.
2/ Lấy về khi có hoa, rửa sạch, phơi râm nơi thoáng gió cho khô, bó lại để chỗ khô ráo, thoáng gió, sạch sẽ, khi dùng cắt ngắn.
3/ Có thể nấu cao với ích mẫu, hai thứ đều nhau (1ml - 10g dược liệu).
 
 
NGŨ VỊ TỬ   五 味  子
1/ Theo Trung Y:
a/ Lấy dao đồng bổ đôi, tẩm mật đồ 3 giờ, ngâm nước tương một đêm, sấy khô dùng (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
b/ Làm thuốc bổ thì dùng chín (Bản Thảo Cương Mục).
2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Tẩm mật, sao phồng đều, khi dùng giã dập. Dùng trong hoàn tán thì sắc lấy nước đặc áo viên thuốc để tránh cố tinh.
Muốn thu liễm thì dùng sống. Muốn cho 5 vị đều xuất hiện thì nghiền nhỏ mà dùng. Muốn bôt nhiều thì đập nát, chứng với mật và rượu, để tăng vị ngọt mà giải bớt tính vị chua, liễm mạnh, nhanh của nó (Dược Phẩm Vậng Yếu).
 
 
NGƯU TẤT   牛 膝
1/ Cắt bỏ thân, rễ tơ, bó từng nắm, phơi đến khi nhăn khô, xông bằng Lưu hoàng vài lần, cắt bằng đầu, phơi khô là được (Dược Tài Học).
2/ Rửa sạch, phơi khô trong râm. Dùng sống hoặc tẩm với rượu hấp qua rồi dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
 
NHÂN SÂM    人  參
1/ Tẩm rượu, ủ mềm, thái lát, lót giấy lên chảo sao nhỏ lửa cho khô (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
2/ Nếu cứng thì hấp cách thủy cho vừa mềm, thái lát mỏng 1mm, tẩm nước Gừng, sao gạo nếp cho vàng rồi cho Nhân sâm vào, đảo qua, bắc chảo ra ngoài, đảo thêm 1 lúc nữa là được. Sau khi bào chế có thể tán thành bột (Dược Liệu Việt Nam).
3/ Hồng Sâm: chọn củ to, nặng trên 37g, rửa sạch, để nguyên cả rễ nhỏ, cho vào nồi hấp trong khoảng 1g30 phút ở nhiệt độ 80-90oC. Sau đó sấy khô ở 40-70oC trong 6-7 giờ, phơi nắng từ 7-15 ngày là được.
4/ Bạch Sâm: Củ Sâm không đủ tiêu chuẩn để chế thành Hồng Sâm thì chế thành Bạch Sâm. Trước hết cắt bỏ rễ con, dùng dao tre cạo sạch vỏ, sau đó phơi nắng cho kho hẳn (khoảng 7-15 ngày).
 
 
NHỤC THUNG DUNG    肉  蓯 蓉
 
1/ Để nguyên củ, đồ chín, phơi hoặc sấy khô hoặc có thể tẩm muối rồi phơi, sấy khô. Khi dùng, rửa sạch, thái lát khoảng 1-2mm, phơi khô. Có thể đồ mềm cho dễ thái (Dược Liệu Việt Nam).
2/ Thái phiến, trộn ngâm với rượu, bổ bỏ lõi trắng nếu có, đồ hoặc hấp để dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
3/ Nhục thung dung: Lấy Điềm Đại Vân, bỏ tạp chất, ngâm nước hoặc lấy Diêm Đại Vân cho vào nước rửa sạch phần muối, vớt ra, sau khi thấm mềm đều, cắt dọc thành lát, phơi khô (Dược Tài Học).
4/ Tửu Thung dung: Lấy Nhục thung dung sạch, cho rượu vào trộn đều (cứ 50kg Thung dung dùng 15kg rượu), cho vào trong bình thích hợp, đậy kín, chưng cách thủy cho ngấm hết rượu, lấy ra, để khô (Dược Tài Học).
Ô DƯỢC   乌 药
1/ Hái thứ rễ bàng chung quanh có từng đốt nối liền  nhau, bỏ vỏ, lấy lõi, sao qua họăc mài (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
2/ Lấy rễ khô ngâm nước  1 ngày, vớt ra, ủ cho mềm, thái lát, phơi khô hoặc  mài (Trung Dược Học).
3/ Rửa sạch, ủ mềm, để ráo, thái lát, phơi khô hoặc  tán thành bột mịn (Dược Liệu Việt Nam).
 
 
 
PHÁ CỐ CHỈ    破 故 紙
1/ Theo Trung Y:
a/ Sao qua với ít nước muối rồi phơi nắng cất dùng (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
b/ Đem Bổ cốt chỉ ngâm rượu một đêm, vớt ra ngâm nước một đêm, vớt ra, phơi khô tẩm muối (100kg Bổ  cốt chỉ dùng 2,5kg muối) đun nhỏ lửa sao qua dùng (Dược Tài Học).
2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam:
a/ Dùng sống cho vào thuốc thang.
b/ Có khi tẩm muối (2,5%) sao qua thấy phồng thơm là được, hoặc có khi tẩm rượu sao qua tuỳ theo đơn (Phương pháp Bào Chế Đông Dược).
Ghi chú: Bổ cốt chỉ là một vị thuốc bằng hạt, vì tính nó ráo cho nên không bao giờ dùng sống, có hại, dùng muối tẩm 1 đêm, đem sao khô dùng.
Tính của nó táo, độc vì vậy phải ngâm rượu 1 đêm, vớt ra dùng với nước chảy phía đông 3 đêm ngày, chưng từ giờ Tỵ đến Thân rồi đem phơi nắng.
 
 
PHÒNG PHONG    房 風
1/ Chọn củ nào chắc mà lại nhuận là tốt. Cắt bỏ đầu đuôi đi, thái nhỏ, để dành dùng dần (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
2/ Bỏ sạch lông bờm trên đầu cuống, phun nước  cho mềm, thái phiến, phơi khô, dùng sống hoặc  sao lên dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
3/ Rửa sạch, để ráo, thái mỏng, phơi khô (Dược Liệu Việt Nam).
 
QUẾ CHI   桂 枝
1/ Theo Trung Y: Gọt sạch bì thô. Với thuốc thang thì mài với nước thuốc, làm thuốc hoàn tán thì tán bột.
2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam:
a/ Đối với quế thật tốt, chỉ mài trong bát sành với ít nước đun sôi để nguội, hoặc với ít nước thuốc thang để uống.
b/ Làm nước hãm (quế thường): cạo bỏ bì thô, gọt thành miếng mỏng. Tẩm nước đồng tiện 1 - 2 ngày đêm (để giáng hoả vì nóng quá xông lên hại mắt).
c/ Cho miếng quế đã tẩm vào cái chén có nắp, đổ nước sôi vào rồi róc ngay ra bỏ đi, cho vào nước sôi khác, lần này để ngấm nguội rồi mới lấy ra uống. Uống lần sau pha với nước khác mà dùng. Một lượt vỏ quế như thế có thể pha 2 - 3 lần.
 
QUY BẢN  龜  板
Chọn lấy thứ Quy bản lâu năm, rửa sạch vỏ và đất cát, giã nát, tẩm rượu nướng hay sao vàng. Ngâm vào nước 3 ngày đêm. Dùng củi gỗ dâu mà nấu thành cao (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
Trước hết đem ngâm yếm rùa vào nước để gân thịt còn sót lại rữa ra rồi cạo cho tróc hết. Có khi đun chín để loại thịt cho dễ. Sau đó dùng nước rửa sạch cho đến hết mùi. Phơi khô, đập nhỏ, đun với nước, ba ngày ba đêm. Lọc loại bỏ bã, nước lọc được đem cô đặc đổ vào khuôn, để nguội cắt thành từng miếng to nhỏ tùy ý (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Cho ngâm vào nước, mỗi ngày thay nước một lần, chừng một tháng, đến khi gân thịt sót lại rữa nát, rửa sạch phơi khô. Dùng sống, hoặc sao kỹ với cát, tẩm dấm nướng vàng dòn để dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Nấu thành cao có bốn bước:
Bước 1: Làm sạch: lấy yếm ngâm vào nước phèn (15%) trong một đêm, vớt ra đổ ngập nước đun sôi 1 - 2 phút.
Bước 2: Làm khô và đập dập: đem phơi hoặc sấy khô đập dập ra từng khớp, rồi mỗi khớp đập ra thành 3 - 4 mảnh nhỏ.
Bước 3: Tẩm sao: lấy nước gừng (giã gừng nhỏ, thêm đồng trọng lượng nước, vắt lấy nước) tẩm 1 đêm. Sao qua cho khô (thường dùng).
Có người đem hơ nóng yếm rùa, rồi nhúng vào giấm ( làm 3 lần) rồi mới đập dập sao qua.
Bước 4: Nấu cao: cách nấu cao quy bản giống như cách nấu cao ban long.
Thường khi cô lại thì cô trên cát dày 5 – l0 cm ở 80o, lúc gần được phải quấy liền tay.
Cao quy bản thường chỉ cô đến độ sệt còn róc ra được đóng vào chai, lọ sạch 40g hay 12g để tiện dùng. Loại cao này có thể để 3 năm không hỏng. Cao này có mùi tanh và thơm.
Sở dĩ chỉ lấy cao Quy bản ở độ sệt vì nếu làm cao đặc như cao Ban long thì bị mềm ra, nhất là mùa hạ thì lại càng chảy ra, hơn nữa các cụ cho rằng nấu đặc như cao Ban long thì mất chất.
Kinh nghiệm ở Viện Đông y thì thấy rằng có thể nấu thành cao đặc như cao Ban long được, cắt thành từng miếng 100g gói kỹ trong giấy bóng kính, mùa đông miếng cao vẫn tốt, sang mùa hè có mềm hơn, nhưng không chảy nhũn ra được  Miếng cao này nếu đem để trong bình kín, dưới có lót vôi sống thì miếng cao rất khô, cứng nhưng có cụ vẫn cho là nấu đến độ đặc như thế thì kém chất.
Để có thể cắt cao Quy bản thành miếng được, có nơi nấu chung yếm rùa với gạc (l/2 Quy bản và 1/2 gạc, hoặc 3 Quy 1 gạc) gọi là Cao Quy Lộc Nhị Tiên.
Thường cứ 10 Kg yếm rùa chưa chế biến thì nấu được 1,80kg cao Quy bản ở thể đặc (cắt thành miếng được, kinh nghiệm ở Viện Đông y).
- Thuốc phiến: lấy nước sôi rửa sạch yếm rùa bằng bàn chải. Phơi hoặc sấy khô, sau đem nướng tồn tính (bẻ ra trong còn thấy vàng là được) lúcđang còn nóng dúng vào giấm. Lại hơ qua cho nóng nhúng vào giấm lần nữa. Tán dập vụn.
 
 
SA NHÂN   砂 仁
 
1/ Theo Trung Y: Sao qua, xát bỏ vỏ mỏng, giã dập dùng hoặc để cả vỏ sao đen dùng.
2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Để cả vỏ sao vàng (ăn không tiêu, trướng đầy). Bỏ vỏ lấy hạt sao hơi sém cạnh (trị thuỷ thũng).
 
 
SÀI HỒ   柴 胡
1/ Sài Hồ: Chọn bỏ tạp chất, bỏ thân còn sót, rửa sạch cát, ủ mềm, cắt thành miếng mỏng, phơi khô (Dược Tài Học).
2/ Thố Sài Hồ: Lấy 50kg Sài hồ đã cắt thành phiến, hòa đều với 6kg giấm (thố), cho vào nồi, dùng lửa nhỏ nấu cho đến khi Sài hồ hút hết giấm và hơi khô thì lấy ra, phơi khô (Dược Tài Học).
3/ Miết Huyết Sài Hồ: Lấy Sài hồ đã cắt thành phiến, cho vào chậu lớn, lấy máu Ba ba (miết huyết) trộn với ít nước ấm đổ cho thấm đều vào Sài hồ, xong cho vào nồi, dùng lửa nhỏ sao qua, lấy ra, đợi nguội là được (Dược Tài Học).
 
 
SƠN TRA   山 查
1/ Sơn tra: Rây cho hết hạt đã rụng là được.
2/ Sao Sơn tra: Cho Sơn tra vào nồi, sao nhỏ lửa cho đến khi mặt ngoài thành mầu vàng nhạt, để nguội dùng.
3/ Tiêu Sơn tra: Cho Sơn tra vào nồi, sao to lửa cho đến khi mặt ngoài thành mầu nâu, mặt trong mầu nâu vàng, phun nước, lấy ra là được.
4/ Sơn tra thán: Cho Sơn tra vào nồi, sao to lửa cho đến khi mặt ngoài thành mầu đen nhưng còn tồn tính, phun nước, lấy ra phơi khô (Dược Tài Học).
 
 
SƠN THÙ DU    山 茱 萸
1/ Ngâm với rượu, bỏ hột đi, lấy vỏ và thịt quả sấy nhỏ lửa cho khô để dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
2/ Tửu Sơn thù: Trộn đều rượu với Sơn thù nhục (cứ 1kg Sơn thù, dùng 60ml rượu), cho vào bình đựng, đậy kín, cho vào nồi nước, chưng cách thủy cho đến khí
hút hết rượu thì lấy ra, phơi khô (Dược Tài Học).
 
 
SA SÂM    砂 參
1/ Theo Trung Y: Nhặt bỏ tạp chất, bỏ đầu cuống, rửa sạch, ủ mềm, cắt ra từng đoạn ngắn, phơi khô dùng.
2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Không được rửa, bẻ đoạn ngắn, dùng sống. Có khi tẩm gừng sao qua (Phế  hàn).
 
SƠN DƯỢC    山 藥
Củ Sơn dược, sau khi đem về, rửa sạch đất, ngâm vào nước sôi, dùng mảnh tre mỏng cạo vỏ ngoài, cạo xong cho vào sấy Lưu huỳnh (Cứ 100kg Hoài sơn, dùng 0,5kg Lưu huỳnh), sấy khoảng 8-10giờ. Khi nước  bốc hơi đi, củ sẽ mềm, đem phơi hoặc  sấy khô. Nếu thấy vỏ ngoài củ đã khô cứng thì ngưng phơi hoặc sấy mà cho ngay vào khay sấy Lưu huỳnh, đậy nắp lại để sấy. Sấy Lưu huỳnh 24 giờ, nước  bốc đi, Hoài sơn lại mềm. Khi đó lại đem phơi hoặc  sấy khô, khi thấy vỏ ngoài đã khô mới thôi. Làm  đi làm lại 3-4 lần cho đến khi khô hẳn là được. Khi sấy khô, lửa không nên nóng quá, dễ cháy hoặc  biến thành rỗng ruột. Trong quá trình chế biến củ phải phơi, sấy nhiều lần để củ khô đều cả trong lẫn ngoài thì phẩm chất mới tốt. Nếu sốt ruột muốn cho củ khô ngay thì sẽ bị hiện tượng trong ướt ngoài khô, nước  chưa bốc đi hết, trong giữa củ sẽ bị nát. Chế biến theo cách trên thành phẩm gọi là Mao Sơn Dược (Trung Dược Đại Từ Điển).
Ở tỉnh Tứ  Xuyên có cách chế biến đơn giản hơn như sau : Đem củ về, cho vào bể ngâm ( cứ 100kg Sơn dược tươi thì cho 1kg Lưu huỳnh với lượng nước  ngập củ là được. Ngâm 1 ngày 1 đêm vớt lên, rửa sạch, để khô, dùng Lưu huỳnh sấy cho tới khi giữa củ mềm là được. Sấy xong lại đưa vào bể ngâm 1 ngày, phơi rồi sấy bằng than là được (Trung Dược Đại Từ Điển).
Cách bào chế đơn giản là : Rửa sạch, thái phiến, dùng sống hoặc  sao với cám ( Đông Dược Học Thiết Yếu).
     Theo kinh nghiệm xuất khẩu của Việt Nam :
Muốn có Hoài sơn hình dáng đẹp, cần chế biến kỹ theo trình tự sau:
1- Sấy Lưu huỳnh lần thứ  I : Sau khi gọt vỏ, đem xếp Củ mài vào lò sấy thưa và đan nhau để cho hơi Lưu huỳnh tỏa đều trên dược liệu ( cứ 100kg Củ mài, dùng 2kg Lưu huỳnh). Sấy 2 ngày 2 đêm, cần ủ lại 1 đêm rồi phơi nắng nhỏ hoặc  sấy nhẹ cho khô. Đem ngâm nước  lã 2 ngày 2 đêm rồi rửa sạch và phơi nắng đến khô.
2-  Sấy Lưu huỳnh lần 2 : Xếp Hoài sơn vào lò sấy như lần trước rồi đốt Lưu huỳnh 1 ngày 1 đêm ( 100kg củ dùng 1kg Lưu huỳnh), đến khi dược liệu mềm như chuối, đem ủ trong vại, đậy bằng bao tải có nhúng nước. Đợi 1 ngày 1 đêm. Đem củ ra sửa cho đều rồi đặt lên ván mà lăn cho đến khi 2 đầu dược liệu lõm vào, đem phơi hoặc  sấy nhẹ cho gần khô, sửa và lăn lại lần nữa cho có hình dáng đẹp, mặt ngoài nhẵn bóng rồi phơi thật khô. Nhúng nhanh vào nước, dùng giấy
nhám đánh cho bóng.
3- Sấy Lưu huỳnh lần thứ 3 : trước khi đóng vào thùng, lại sấy Hoài sơn 1 lần với Lưu huỳnh nữa ( 100kg Củ mài dùng 200g Lưu huỳnh, sấy trong 1 ngày 1 đêm) rồi phân loại :
. Loại nhất  : 4 khúc.                  . Loại bốn  : 10 khúc.
. Loại nhì    : 6 khúc.                  . Loại năm : 12 khúc.
. Loại ba     : 8 khúc.            . Loại sáu  : 14 khúc.
            ( cho 500g trọng lượng ).
Hoài sơn tốt phải có mầu trắng bóng, không vàng, chất củ rắn chắc, không xốp, không có vết lỗ chỗ, không bị sâu mọt (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
 
 
 
TAM THẤT   三 七
1/ Theo Trung Y: Mùa nắng hoặc mùa đông, đào lấy củ đem về rửa sạch, phơi khô khi dùng thái lát, tán bột.
2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Có thể dùng tươi, rửa sạch, giã đắp lên vết thương. Rửa sạch, phơi khô, khi dùng tán bột hoặc mài với nước mà uống, không dùng sắc và không sao tẩm gì. Rửa kỹ bằng bàn chải, để ráo, ủ rượu cho mềm, bào phiến mỏng, sấy nhẹ cho khô đựng trong lọ kín, khi dùng hãm riêng rồi hoà vào chén thuốc đã sắctới cho uống. Có người rửa kỹ để ráo, ủ rượu 3 giờ cho mềm, thái mỏng sao qua (vi sao), tán bột để dùng.
 
 
TANG BẠCH BÌ   桑 白 皮
1/ Theo Trung Y:
a/ Dùng dao đồng cạo hết vỏ vàng xanh, thái nhỏ, sấy khô (Lôi Công Bào Chích Luận).
b/ Tẩm mật ong sao.
2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam:
a/ Rửa qua, cạo sạch hết vỏ xanh và vàng ngoài, thái mỏng 2 - 3 ly, phơi khô (dùng sống).
b/ Sau khi phơi khô, tẩm mật ong sao vàng (1kg vỏ rễ tẩm độ 150g mật đã pha loãng 1/2 với nước).
c/ Cạo bỏ vỏ mỏng bên ngoài, lấy phần trắng, đồ cho mềm đều, thái hoặc tước ra hoặc tẩm mật sao lên dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
 
 
TANG DIỆP    桑 葉
Theo Trung Y: Hái lá dâu vào cuối mùa xuân lúc đương xanh tốt hoặc hái vào cuối thu lúc lá đã rụng 2/3, gọi là lá thần tiên. Phơi râm hợp lẫn với nhau.
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Hái về rửa sạch, vẩy ráo nước, phơi râm cho khô giòn, chà xát bỏ gân, cọng lá (dùng sống), hoặc có thể tẩm mật (ít dùng), sao qua cho thơm, tuỳ theo thầy thuốc.
Dễ tán thành bột mịn làm hoàn tán.
 
 
TẦN GIAO   秦 艽
Theo Trung Y: Dùng Tần giao lấy vải chùi sạch lông vàng trắng, ngâm nước một đêm rửa sạch phơi khô dùng (Lôi Công Bào Chích Luận).
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Bỏ cuống, lần ra cho khỏi rối, nhặt bỏ tạp chất, rửa sạch cắt khúc ngắn phơi khô (thường dùng) sau đó có thể tẩm rượu dùng.
 
 
THẠCH XƯƠNG BỒ    石 菖 蒲
Theo Trung Y: Không dùng thứ nê xương, hạ xương rễ như rễ tre, màu đen, vị tanh.
Chỉ dùng thứ mọc ở trên đá, rễ non vàng nhạt, một tấc có chín đốt là đúng và tốt (Cửu tiết xương bồ). Cạo bỏ vỏ lấy cành Dâu trộn lẫn đồ chín, thái lát phơi khô (Lôi Công Bào Chích Luận).
Rửa sạch, ủ mềm thái lát dùng hoặc sao qua.
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Nếu còn đất, rửa sạch, ủ một đêm, bào, phơi khô.
 
THANH BÌ    青 皮
Ngâm với nước cho mềm, cắt ra từng miếng, phơi khô ngay là dùng được.
 
 
THỔ PHỤC LINH   土 茯 苓
Theo kinh nghiệm Việt Nam: - Rửa sạch, ủ hai ba ngày cho mềm, thái hoặc bào mỏng độ 2 ly. Phơi khô (thường dùng).
- Nấu thành cao lỏng (1ml = 5g dược liệu).
- Làm bột: rửa sạch, ủ mềm, giã nhỏ, hoà với nước rồi chắt lấy nước, để lắng, gạn lấy bột, làm nhiều lần như vậy. Bột đem sấy khô.
 
 
THƯƠNG TRUẬT   蒼 朮
Ngâm nước gạo cho mềm, thái phiến, sao khô (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Chích Thương truật: Lấy Thương truật phiến, rẩy nước vo gạo vào cho ướt đều, cho vào nồi sao nhỏ lửa cho hơi vàng. Hoặc lấy Thương truật tẩm nước vo gạo rồi vớt ra, cho vào nồi hấp (đồ)  cho chín, lấy ra phơi khô là được (Dược Tài Học).
 
THƯƠNG NHĨ TỬ   蒼 耳 子
1/ Theo Trung Y: Hái lấy quả, phơi khô, khi dùng sao chín giã bỏ hết gai hoặc tẩm rượu đồ chín.
2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Rửa sạch phơi khô, sao cháy, hết gai, xát (bằng găng tay), sẩy bỏ gai, giã dập khi bốc thuốc thang.
Tán bột làm hoàn tán hoặc nấu cao lỏng (1ml = 4g dược liệu)
 
TRẠCH TẢ   澤 潟
Trạch tả: Ngâm nước thấm 8 phân, vớt ra, phơi khô.
Diêm Trạch tả: Phun đều nước muối vào miếng Trạch tả cho ẩm (cứ 50kg Trạch tả dùng 720g muối), rồi cho vào nồi, sao qua nhỏ lửa cho đến khi mặt ngoài thành mầu vàng, lấy ra phơi khô (Dược Tài Học).
 
 
TRI MẪU   知 母
Theo Trung Y: Trước hết tước nhỏ, đốt cho cháy lông và khô, rồi bỏ vào cối giã, không dùng đồ sắt (Lôi Công Bào Chích Luận).
Chọn thứ béo mềm, trong ruột trắng, cạo bỏ lông, thái lát, cho đi lên thì tẩm bột sao khô (Bản Thảo Cương Mục).
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Sao cho cháy lông, chà bằng vải cho sạch. Cạo lại, rửa sạch ủ đến mềm, thái miếng mỏng, sấy nhẹ cho đến khô. Tẩm rượu (thường dùng) hoặc tẩmmuối hay gừng tuỳ theo đơn.
 
 
TRẦN BÌ   陳 皮
1- Rửa sạch, phơi khô, thái nhỏ, dùng sống hoặc sao, càng để lâu càng tốt (Đông Dược Học Thiết Yếu).
2- Rửa sạch (không rửa lâu), lau, cạo sạch phía trong, thái nhỏ, phơi nắng vừa cho khô. Sao nhẹ lửa để dùng (trị nôn, dạ dầy đau). Có khi tẩm mật ong hoặc muới, sao qua để dùng [trị ho] (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
 
TỤC ĐOẠN   續 斷
1/ Theo Trung Y: Ngâm nước một lúc, ủ mềm thấu, thái lát phơi khô (dùng sống) hoặc tẩm rượu sao dùng.
2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Rửa sạch thái mỏng, phơi khô (thường dùng).
Có khi tẩm rượu sao qua (trị đau xương).
Ngâm rượu uống với các thuốc khác.
 
 
UY LINH TIÊN    威 靈 仙
1/ Theo Trung Y: Rửa sạch, bỏ tạp chất, ngâm nước cho mềm, vớt ra cắt từng khúc 2cm, phơi khô dùng; hoặc tẩm rượu, ủ thấu, sao nhỏ lửa cho khô, để nguội dùng.
2/ Theo kinh nghiệm Việt Nam: Bỏ tạp chất, rửa sạch, ủ kín độ 12 giờ (không được ngâm nước) cắt ra từng khúc 3cm phơi khô.
Tuỳ từng trường hợp tẩm rượu, giấm, mật, gừng rồi sao qua.
 
 
VIỄN CHÍ   遠 志
1/ Bỏ lõi, sao lên dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
2/ Chích Viễn chí: Lấy Cam thảo cho vào nồi, đổ thêm nước, nấu bỏ bã, cho Viễn chí vào (Cứ 5kg Viễn chí dùng 100g Cam thảo), nấu vừa lửa cho hút hết nước cốt Cam thảo, lấy ra để khô là được (Dược Tài Học).
 
XÍCH THƯỢC   赤 芍
Theo Trung Y: Ủ mềm thái mỏng (dùng sống). Có thể tẩm rượu hoặc tẩm dấm sao.
Theo kinh nghiệm Việt Nam:
- Rửa sạch, ủ cho đến mềm thấu, thái lát, hoặc bào mỏng. Sấy hoặc phơi khô (dùng sống).
- Sau khi bào thái mỏng sấy khô, tẩm rượu 2 giờ rồi sao, hoặc tẩm dấm sao.
 
 
XUYÊN KHUNG   川 芎
1/ Lấy Xuyên khung khô ngâm nước 1 giờ, ủ kín độ 12 giờ cho mềm, thái lát dầy 1mm, phơi khô. Xuyên khung ngâm rượu: Thái Xuyên khung ra từng lát mỏng, ngâm với rượu (cứ 640g Xuyên khung, dùng 8 lít rượu), sao với lửa hơi nóng cho hơi đen, lấy ra để nguội (Trung Dược Đại Từ Điển).
2/ Ngâm nước  rồi gạn đi, ủ lại cho mềm là được, thái phiến, phơi khô, dùng sống hoặc  ngâm rượu để dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
3/ Rửa sạch, ủ 2-3 ngày cho đến khi mềm, củ nào chưa mềm, ủ lại ( không nên đồ vì dễ bị nát, bay hết tinh dầu), thái lát hoặc bào mỏng 1-2 mm, phơi hoặc  sấy nhẹ lửa (40-50o), Nếu dùng sống, sau khi thái có thể sao qua cho thơm hoặc  phơi khô rồi tẩm rượu 1 đêm, vi sao (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
 
 
XẠ CAN   射  干
1/ Lấy nước ngâm mềm, thái nhỏ, phơi khô (Đông Dược Học Thiết Yếu).
2/ Dùng tươi: rửa sạch, giã với ít muối, ngậm. Dùng khô: mài thành bột trong bát nhám, uống với nước (Dược liệu Việt Nam).
 
XUYÊN SƠN GIÁP    川 山 甲
Theo Trung Y: Dùng Xuyên sơn giáp thì có thể nướng phồng, đốt cháy, tẩm mỡ, giấm, nước tiểu trẻ em hoặc dầu mè, rồi nướng hoặc sao với đất, với bột hến
(cáp phấn) tuỳ từng trường hợp không bao giờ dùng sống (Bản Thảo Cương Mục).
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Lấy nước vôi lỏng (độ 5 lít nước với 20g vôi tôi rồi) ngâm 1 ngày. Lấy ra xóc rửa cho kỹ nhiều lần. Để khô, lấy cát rang nóng cho vảy Tê tê vào, sao cho phồng lên và vàng đều, đựng kín. Khi dùng tẩm giấm hoặc nước tiểu trẻ em tuỳ theo đơn, giã dập dùng trong thuốc thang hoặc tán bột với các thuốc khác làm hoàn.
Tại Viện Đông y: rửa sạch, để khô, tẩm dấm, sao cho phồng và vàng đều (cách này thường dùng).
 
 
Ý DĨ NHÂN    意 苡 仁
Dùng sống hoặc sao với cám (cứ 50kg Ý dĩ dùng 5kg cám), sao cho hơi vàng , bỏ cám đi, để nguội dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
 
 
 
                                                                                     DS. Nguyễn Thị Hải
                                                                                     TS. Nguyễn Văn Quân

X

Tin Nóng

yout twitter fb-thich-daibio