Bào có nghĩa là dùng sức nóng để thay đổi lý tính và dược tính của thuốc, tiện cho việc chế biến và điều trị.
ĐẠI CƯƠNG VỀ BÀO CHẾ ĐÔNG DƯỢC
1. BÀO CHẾ LÀ GÌ?
Bào có nghĩa là dùng sức nóng để thay đổi lý tính và dược tính của thuốc, tiện cho việc chế biến và điều trị.
Chế có nghĩa là dùng công phu thay đổi hình dạng, tính chất của dược liệu.
Nói chung, bào chế là công việc biến đổi tính thiên nhiên (thiên tính) của dược liệu thành những vị thành thuộc để phòng và trị bệnh. Trong tiếng Việt thường dùng danh từ thuốc chín đối nghĩa với danh từ thuốc sống, chữ chín có đủ nghĩa của 2 chữ Bào chế.
Tài liệu xưa để lại lâu đời nhất là quyển Bào chế luận của Lôi Hiệu (Trung Quốc) vào khoảng năm 420-479 và sau đổi là Lôi công bào chế. Quyển này vẫn có giá trị cho đến ngày nay.
2. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC BÀO CHẾ
Nhằm những mục đích sau đây:
- Bỏ các tạp chất lộn trong dược liệu: mốc, sâu mọt.
- Để dễ thái miếng, dễ bảo quản, dễ tán ra bột hoặc dễ nấu cao để chế thành thuốc.
- Bỏ bớt vài bộ phận không cần thiết của dược liệu và làm cho vị đó tinh khiết thêm lên (Mạch môn bỏ lõi, Ngưu tất bỏ đầu).
- Giảm bớt độc tính của dược liệu (Mã tiền, Bán hạ, Hoàng nàn...)
- Thay đổi tính năng của vị thuốc bằng cách tẩm sao cho dễ tan vào nước, để dễ đồng hoá, dễ thấm hút (Quy, Hoàng bá, Bạch thược, tẩm rượu).
3. YÊU CẦU CỦA VIỆC BÀO CHẾ
Trần Gia Mô (1562) đời Minh có nói: Bào chế cốt ở chỗ vừa chừng, non quá thì khó kiến hiệu, già quá thì mất khí vị.
Câu này là một cách ngôn mấu chốt cho tất cả mọi người làm công tác bào chế Đông dược. Nhưng bào chế nào gọi là vừa chừng. Đạt được danh từ này thật là khó: Cắt, thái nên dày hay mỏng, sao nên già hay non...
Kỹ thuật bào chế đông dược trông qua thật là đơn sơ, nhưng nó đòi hỏi ở người bào chế nhiều kinh nghiệm, đã làm lâu năm trong nghề. Có 2 yêu cầu chính sau đây:
- Bảo đảm chất thuốc (phẩm chất), kỹ thuật đúng.
- Người bào chế giỏi, ngoài sự hiểu biết về dược tính, còn phải tuỳ trạng thái phẩm chất của vị thuốc, tuỳ từng yêu cầu của bài thuốc mà định việc bào chế cho được vừa chừng.
4. CÁC DỤNG CỤ BÀO CHẾ THÔNG THƯỜNG
Bàn chải: (lông, tre, đồng) để chải cho sạch đất, cát, nấm bám lên dược liệu.
Giần, sàng: Để phân chia, chọn lọc dược liệu theo nặng nhẹ cho được thêm tinh khiết.
Dao thái: (sắt, đồng, tre, nứa) thái cắt dược liệu cho nhỏ. Thường dược liệu có chất chát thì không dùng dao sắt, mà dùng dao tre (nay ít áp dụng).
Dao cầu: Để thái dược liệu to cứng.
Dao bào: Để bào những dược liệu đã được ủ mềm.
Cối, chày: Để giã dập hoặc nghiền tán bột, luyện thuốc hoàn thường là cối bằng đồng, đá, sứ, gang...
Thuyền tán: Bằng gang để tán dược liệu đã sấy khô thành bột nhỏ, khi tán nên giấy sạch ở dưới và xung quanh thuyền tán để hứng lấy bột vương vãi ra, tán bằng chân phải rửa sạch chân hãy vào tán.
Rây: Thường dùng rây mua ở ngoài chợ, rây này tương ứng với rây số 26-24 của tây y, bột rây này khó làm viên nén được.
Siêu: (đất, men) để sắc thuốc.
Chảo: Thường dùng bằng gang để sao, nấu thuốc. Dược liệu có chất chát thì không nấu bằng chảo gang hay thùng gang, sắt, mà dùng siêu đất, thùng nhôm hay tôn hoặc thiếc, đồng,...
Cóng: Nối nhôm hay đất để chưng thuốc.
Chõ: Bằng đất hay gỗ, nhôm, đồng để đồ dược liệu cho mềm hoặc cho chín.
Các dụng cụ trên đây còn thô sơ, khi dùng phải rửa thật sạch, tiệt trùng bằng cách đốt cồn, nếu cần chúng ta phải nghiên cứu cải tiến để cơ giới cách bào chế đông dược, tránh luộm thuộm và thủ công.
5. CÁC DẠNG THUỐC BÀO CHẾ THÔNG THƯỜNG TẠI VIỆN ĐÔNG Y.
Tại viện Đông y thường bào chế các dạng thuốc sau đây:
a) Thuốc phiến.
b) Thuốc sắc.
c) Thuốc cao nước.
d) Thuốc hoàn.
e) Thuốc tán.
Thuốc phiến là dạng thuốc dùng nhiều nhất để bốc thuốc thang. Các dạng thuốc khác không nhiều thì ít đều qua dạng thuốc phiến.
A - CÁC THỦ THUẬT VỀ BÀO CHẾ THUỐC PHIẾN
Công việc bào chế thuốc phiến rất nhiều, nhưng có 4 loại chính:
1. Làm bằng tay
2. Dùng nước
3. Dùng lửa
4. Dùng lửa và nước.
1 - LÀM BẰNG TAY
a) Làm sạch dược liệu:
- Rửa: Các dược liệu trước khi đưa ra bào chế, đều phải rửa sạch, thường lấy các loại củ, rễ, hột,...(Huyền sâm, Bạch vị, Vừng đen,...)
Các rễ, củ phức tạp thì phải tách nhỏ ra rồi mới rửa.
Có những vị khi rửa không nên ngâm lâu, vì mất chất (Cam thảo, Sinh địa) hoặc không rửa được (Bối mẫu, Quy,...)
Dược liệu có muối cũng phải rửa cho sạch bớt muối (Côn bố, Hải tào, Diêm phụ...)
Các hoa, cành nhỏ (Cúc hoa, Hồng hoa) không nên rửa, chỉ chọn lọc hoặc sàng sẩy bỏ tạp chất.
- Sàng, sẩy: Dùng giần sàng để bỏ rác, tạp chất lẫn trong dược liệu (Tử tô, Mạn kinh tử, Liên kiều, Cúc hoa).
- Chài, lau: Dùng bàn chải lông, tre mềm để chải các dược liệu bị mốc (Hoài sơn, các loại sâm...) Khi chải, lau có thể dùng nước, dùng rượu, xong rồi đem sấy lại cho khô. Cách này còn dùng để làm sạch những lông gây ngứa ở thân, lá (Bồng bồng).
b) Chọn lửa:
Bộ phận dùng của dược liệu phải chọn lựa để dùng cho thích hợp đáp ứng với yêu cầu tác dụng của vị thuốc.
Bỏ gốc, mắt: Ma hoàng dùng phát hãn thì dùng thân bỏ rễ, bỏ đốt (nhưng thường dùng cả đốt).
Bỏ rễ con, lông: Vì ít tác dụng, lại gây tác hại, làm nặng thang thuốc (Hoàng liên, Hương phụ, Xương bồ, Tri mẫu).
Bỏ hạch: Hạch là hột cứng trong dược liệu, không có tác dụng, thì bỏ đi, Ô mai, (nhưng ít khi bỏ), Sơn trà.
Bỏ chân, đầu: Thuyền thoái, Toàn yết có móng chân, răng nhọn dùng trong thuốc tán thì bỏ đi, đầu cóc có mủ độc phải bỏ đầu từ dưới 2 u mù.
Bỏ vỏ, màng: Đào nhân, Hạnh nhân, Sử quân tử có màng không cần đến thì giội nước sôi, để một lúc màng bong ra tước bỏ đi, có thứ phải rang cho vàng rồi sát cho tước vỏ (Bạch biển đậu) có thứ đập nhẹ cho tróc và lấy nhân (Qua lâu nhân).
Bỏ lõi ruột: Bách bộ, Mạch môn đông, thì ủ hay đồ mềm rồi rút bỏ lõi vì gây "phiền". Kim anh tử nạo bỏ lông.
II - DÙNG NƯỚC (Thuỷ chế)
Dùng nước để làm cho dược liệu được sạch, mềm, tiện cho việc thái mỏng, hoặc để giảm độc tính hoặc thay đổi tính năng của nó.
- Rửa: (Đã nói ở trên)
- Tẩy rượu: Dùng rượu thường để dầm hay tẩm dược liệu trong 5-10 phút rồi đưa ra sắc (Quy, Ngưu tất...)
- Ngâm: Dùng nước thường hay nước vo gạo đặc đổ ngập để dược liệu mềm dễ thái, bào hoặc làm giảm độc tính của dược liệu về mặt nào đó (Hoàng nàn, Hà thủ ô, Mã tiền...)
Tuỳ từng dược liệu, thời gian ngâm từ 1 giờ đến 24 giờ hay hơn. Ngâm lâu, thì hàng ngày phải thay nước ngâm một lần.
Ủ: Dùng nước lã, số lượng ít, làm cho dược liệu đủ thấm ướt để dễ bào thái (Ba kích, Hoài sơn, Bạch truật), nếu ngâm lâu thì làm mất tính chất của thuốc, cách này gọi là ủ: thường muốn ủ thì làm ướt dược liệu rồi lấy bao bố tới, vải ướt đậy kín vài giờ hay vài ngày thì dược liệu mềm, lấy ra bào thái (Xuyên khung...)
Tẩm: Dùng rượu, giấm, muối, gừng nhào vào dược liệu cho đủ ướt để cải tiến thay đổi tính chất của dược liệu, cách này rất thường dùng.
Trước khi tẩm, dược liệu thường thái miếng mỏng phơi sấy qua cho khô.
Thời gian tẩm, tuỳ từng dược liệu vài giờ cho đến 8-10 giờ.
Sau khi tẩm rồi đem sao lại cho khô, sao cho vàng là được.
Ý nghĩa của tẩm sao:
- Tẩm rượu sao:
Rượu thường dùng là rượu ta (35-40°). Tẩm xong để nửa giờ đến 1 giờ rồi đem sao. Lửa nên để nhỏ, sao lâu để rượu đủ sức ngấm vào thuốc, hơi rượu chớm bốc có mùi thơm bay ra là được. Số lượng rượu dùng tuỳ theo dược liệu từ 50 đến 200 ml cho 1 kg thuốc.
Sách nói: Tẩm rượu sao để thăng đề (dùng rượu để dẫn thuốc lên các bộ phận phía trên của cơ thể). Tẩm rượu sao để giảm tính lạnh, thêm sức ấm cho dược liệu (Hoàng bá, Hoàng cầm, Hoàng liên, Bạch thược, Sơn thù, Tục đoạn, Thường sơn, Nhục dung, Phòng kỷ...)
Tẩm rượu để một số chất của vị thuốc dễ tan vào rượu, rồi sau tan vào thuốc sắc.
- Tẩm gừng sao:
Gừng tươi sạch, giã dập, thêm ít nước, vắt lấy nước để tẩm, để ngâm chừng một giờ rồi đem sao, lửa nhỏ, sao lâu cho đến khi có màu vàng thấy mùi thuốc thơm là được. Số lượng nước tẩm từ 5% đến 10%-15% tuỳ theo dược liệu.
Thường 1 kg dược liệu phải dùng đến 50-100g gừng. Các loại Sâm cũng thường tẩm nước gừng sao thơm để tăng sức bồi dưỡng. Lửa nhỏ, nhiệt độ 50-60°, thuốc hơi vàng là được, không để già quá.
Có những vị nhỏ, hay bị cháy sém như Hồng tu sâm, Nhị hồng sâm, tẩm gừng xong nên sao trên giấy. Trải giấy lên mặt chảo rồi đổ thuốc lên sao (nhiệt độ 30-40° gọi là sao cách giấy).
Tẩm gừng sao để mượn chất ấm của gừng làm giảm tính lạnh của dược liệu. Gừng làm ấm tỳ vị và giúp thêm tiêu hoá.
Tẩm muối sao:
Muối ăn một phần cho 5 phần nước đun sôi, lọc lấy nước tẩm đều với thuốc để 1-2 giờ rồi đem sao lửa nhỏ, sao chậm, đến khi mặt dược liệu vàng già là được (Đỗ trọng, Trạch tả, Hoàng bá, Phá cố chỉ, Ích trí nhân). Số lượng nước tẩm thường là 5% dược liệu.
Tẩm muối sao để vị mặn dần thuốc vào thận.
- Tẩm giấm sao:
Giấm có nhiều loại, thứ tốt nhất là loại giấm thanh nuôi bằng chuối, bún, mùi chua, thơm và hơi ngọt.
Dùng giấm ăn thường cũng được nhưng đừng chua quá (có thể pha thêm nước ấm cho loãng ra), nhạt quá thì giấm kém tác dụng. Nói chung giấm có độ axit axêtic 5% là vừa.
Nếu số lượng dược liệu ít, tẩm giấm, xâm xấp, để 1-2 giờ rối sao lên cho ráo hơi nước, vàng cạnh là vừa.
Nếu số lượng nhiều hơn, bỏ dược liệu vào một cái chậu dội giấm lên đảo đều. Lấy bao tải sạch đậy lại để qua một đêm, hôm sau lấy ra từng ít, sao vàng cạnh là được.
Số lượng giấm dùng là 5% dược liệu.
Các dược liệu thường tẩm giấm: Hương phụ, Miết giáp.
Sách nói: Vị chua hay dẫn vào gan.
Sao giấm để chỉ thống, làm tăng tác dụng chỉ thống của vị thuốc (Huyền hồ), giảm tính kích thích của một số vị thuốc.
Giấm là loại axit, tẩm với dược liệu để gây một phản ứng nào đó để thuốc thêm tác dụng trị bệnh.
- Tẩm đồng tiện sao:
Dùng nước tiểu trẻ em dưới 5 tuổi khoẻ mạnh không bệnh tật, mới đái bỏ nước đầu, cuối, lấy giữa. Sau khi tẩm dược liệu thì đem sao vàng. Số lượng đồng tiện dùng thường là 5% dược liệu.
Tẩm đồng tiện để dẫn thuốc vào huyết và giáng hoả (Hương phụ).
- Tẩm nước gạo sao:
Gạo mới vo, nước gạo nên đặc không quá loãng.
Số lượng nước gạo thường dùng là 5-10% dược liệu.
Tẩm xong để 1 đêm cho thấm, sấy khô rồi sao vàng cạnh là được.
Tẩm nước gạo vo để làm bớt tính ráo của dược liệu (thường là dược liệu có tinh dầu như Thương truật...)
Khi thấy đơn ghi tẩm mễ trấp, mễ cam trấp sao, thì phải làm đúng kỹ thuật như trên, chứ không phải đúng qua nước gạo rồi sao ngay.
- Tẩm sữa:
Tấm sữa làm vị thuốc bớt tính và dưỡng huyết.
Xưa nay dùng sữa người, nay dùng sữa bò (nửa sữa bò nửa nước sôi). Bạch linh thường hay được tẩm sữa để 1-2 giờ rồi sao vàng cạnh. Hoài sơn cũng có dùng sữa tẩm một lúc rồi sao thơm. Khi sao, lửa nhỏ. Ít dùng.
- Tẩm mật sao:
Mật thường dùng là mật mía, tốt hơn là dùng mật ong. Mật không nên đặc quá, đặc quá mật chỉ bám ở ngoài; gặp nóng, mật sẽ quánh lại ở phía ngoài mà không thấm vào dược liệu, do đó nên pha thêm 1 nửa mật và 1 nửa nước sôi vào mật đặc, đun nhỏ lửa khuấy đều. Tẩm xong để 4-6 giờ cho thấm rồi đem sao, sao vàng cạnh là được, sao chậm.
Dược liệu thường tẩm mật: Hoàng kỳ, Cam thảo, Tang bạch bì, Tỳ bà diệp, Bạch tiền, Cù túc xá. Số lượng mật dùng tẩm tuỳ theo dược liệu, từ 5-10%.
Mật là chất ngọt giúp thêm nhiệt lượng cho cơ thể có tính cách bồi dưỡng, chất ngọt làm giảm chất đắng, chất chát của một số vị thuốc, thêm sức ấm bổ cho Hoàng kỳ, Đảng sâm, thêm sức nhuận phế, chữa ho cho Tử uyển, Bách bộ...
- Tẩm hoàng thổ sao:
Dùng đất vách lâu ngày (trần bích thổ), đất lòng bếp (phục long can) hoặc hoàng thổ (đất sét). Nay thường dùng bột vàng quét tường nhà cứ 100g bột vàng cho vào 1 lít nước đun sôi khuấy đều, chắt bỏ nước trên, gạn lấy nước giữa, bỏ cặn. Cứ 100g dược liệu tẩm với 400ml nước hoàng thổ để qua 2-3 giờ (hoặc phơi) hoặc sao cho vàng cạnh là được.
Có người dùng bột vàng sao với dược liệu, dược liệu tự bám lấy một số đất trong khi sao cho chất dầu tiết ra, sao vàng cạnh là được. Có người lấy bột đất sét hoà với nước cho vừa sền sệt tẩm vào miếng Truật cho lên chảo sao khô đến vàng cạnh.
Tỳ thuộc thổ, vàng ra màu của thổ, đất là chất của thổ, sao hoàng thổ để dẫn thuốc vào tỳ vị.
Dược liệu có tinh dầu sinh ra tính ráo, đất sao với Truật hút một số dầu của Truật do đó làm giảm tính ráo đi.
- Tẩm nước đậu đen, nước Cam thảo:
Cứ 100g đậu đen cho vào 1 lít nước đun kỹ (đối với Cam thảo thì tán bột ngâm 1 ngày 1 đêm) lấy nước sắc mà tẩm Hà thủ ô, Trâu cổ, Viễn chí. Số lượng nước tẩm thường từ 10 đến 20% dược liệu.
Tẩm nước đậu đen, nước Cam thảo để giải độc, làm tính thuốc êm dịu, đỡ chát.
- Thuỷ phi:
Thuỷ phi là phương pháp tán nghiền dược liệu trong nước với mục đích sau đây:
+ Lấy bột mịn tinh khiết.
+ Làm cho bột mịn không bay lên được khi tán nhỏ.
+ Để tránh sức nóng làm biến hoá thành phần của thuốc.
Trước hết đem tán dược liệu cho thật nhỏ (Ngũ linh chi, Thạch quyết minh...), đổ nước vào cho ngập quá đốt ngón tay, quấy đều, hớt bỏ màng, bụi rác, nổi trên mặt nước; đồng thời vừa quấy nhẹ, vừa gạn nước sang bên khác, thứ không tan được (cạn) thì bỏ đi. Nước gạn được để lắng một thời gian, đến khi nước thành trong thì chắt nước này bỏ đi. Chất lắng xuống đem phơi và tán lại thành bột. Làm được 2, 3 lần càng tốt.
Dược liệu kỵ nóng, không tán khô được (Chu sa), thì cho vào ít nước rồi tán.
III- DÙNG LỬA (Hoà chế)
Đem dược liệu trực tiếp hoặc gián tiếp với lửa làm cho thuốc khô ráo, xám vàng, hoặc thành than với mục đích để bảo quản hoặc để thay đổi tính chất và tăng hiệu lực của thuốc.
Sao là công việc thường xuyên của người bào chế, cũng là phương pháp quan trọng của việc bào chế thuốc phiến.
Đồ dùng để sao thường là chảo gang, cái đảo hoặc cái bàn xăm hay đôi đũa cả và 1 chổi để quét dược liệu ra khỏi chảo gang. Trước khi sao, dược liệu cần được phân loại to, nhỏ để khi sao vàng già và đều, không sao chung thứ to thứ nhỏ lẫn với nhau, vì thứ nhỏ bị cháy trước, mà thứ to lại chưa được.
Khi sao cần chú ý đến những yêu cầu sau đây:
Về già non (màu sắc của thuốc trong chảo sao)
Về thời gian (nên nhanh hay chậm)
Về lửa (nên to, nhỏ hay vừa)
Về cách đảo thuốc (nhanh hay chậm)
Về khối thuốc (nhiều hay ít, đen hay vàng trắng)
Tất cả các điểm trên đây cùng chú ý trong một lúc để dược liệu sao đạt yêu cầu.
Có 2 cách sao:
Sao không thêm chất khác.
Sao có thêm chất khác.
a) Sao không thêm chất khác:
1. Sao vàng:
Sao cho ngoài có màu vàng, trong ruột vẫn như màu cũ, cốt có mùi thơm, hoặc để vị thuốc bớt tính lạnh. Lửa để nhỏ thời gian sao lâu, cốt để nhiệt độ thấu nóng vào đến ruột (Ngưu bàng, Hoài sơn, Hoè hoa...). Có thứ trước khi sao, vảy qua nước cho ẩm để sức nóng thấm vào trong mà không cháy cạnh: Ý dĩ, Đậu đen...
2. Sao vàng hạ thổ:
Quét sạch đất (có người đào hố sâu dưới đất 10-30cm) úp thuốc xuống, đậy vung lại để 10-15 phút cho nguội (nên trải miếng vải hoặc giấy mỏng, rồi úp thuốc lên cho được sạch sẽ).
Cách sao này có ý nghĩa như sau:
- Cho vị thuốc khô dễ bảo quản.
- Cho vị thuốc lên mùi, thơm để nhập tỳ, không buồn nôn.
- Để giảm bớt tính lạnh của thuốc (phần âm) bằng cách dùng lửa. Khi dùng lửa như vậy thì phần dương của thuốc tăng lên gây hoả độc (nóng, sốt, đinh mụn) cho nên phải hạ thổ để đất hút bớt phần dương của thuốc (hoả độc) đồng thời trả lại ít phần âm cho thuốc (cân bằng âm dương).
Ví dụ: rễ Cỏ xước, Gối hạc, lá Muồng trâu...
3. Sao già xém cạnh:
Áp dụng cho các vị thuốc chua chát, hoặc tanh lợm quá (Binh lang, Hoè giác, Thần khúc, Chỉ thực, Thăng ma) để thay đổi mùi vị, nhưng vẫn bảo đảm chất thuốc.
Dùng lửa to, khi chảo đã thật nóng mới bỏ thuốc vào, đảo không cần nhanh, khi thấy mặt ngoài xém cạnh là vừa, màu ruột thuốc vẫn giữ nguyên.
4. Sao tồn tính (hắc sao):
Để thêm tác dụng tiêu thực, tả lỵ huyết, khái huyết hoặc làm thay đổi tính chất của thuốc (Hương phụ, Địa du, Hắc kinh giới...)
Để lửa già, chảo thật nóng, đảo đều đến khi bên ngoài cháy đen, bẻ ra trong còn màu vàng cũ là được.
5. Sao cháy (thán sao):
Để thuốc có tác dụng chỉ huyết. Lửa để già, chảo thật nóng, dược liệu để cháy đen, đảo đều. Úp vung lại ngay để nguội (thán khương).
Sao cháy không có nghĩa là sao thành tro, mà bao giờ cũng cho cháy đến 7/10 là được. So với sao tồn tính, mức độ có cháy hơn.
Mấy điều chú ý khi sao cháy:
- Không nên sao nhiều một lúc vì sẽ không đều và dễ gây hoả hoạn.
- Sao cái lớn trước, cái nhỏ sau.
- Không nóng ruột, không châm lửa cho cháy, không phun nước vào, nhưng cũng có khi phải châm lửa đốt (ô mai).
- Chuẩn bị cái vung để úp chụp đậy kín (dược liệu sao cháy có lửa âm ỉ ở dưới, nếu không đậy vung, bỏ đấy, có thể tự nhiên bốc cháy gây hoả hoạn).
b) Sao có thêm chất khác:
Sao thuốc bằng cát, bằng bột văn cáp (vỏ hàu hến) hoặc hoạt thạch là mượn các thứ này làm trung gian truyền nhiệt (cát giữ nhiệt ở 300°, văn cáp 250°, Hoạt thạch 200-220°). Khi sao, các thứ đó bao quanh miếng thuốc làm cho miếng thuốc không chạm đáy chảo và thấm nhiệt đều và sâu vào miếng thuốc.
1. Sao cát:
Chọn thứ cát mịn nhỏ, đãi thật sạch, cho cát vào chảo rang trước cho nóng già (lửa lúc đầu nhỏ sau to dần); sau khi cho thuốc vào đảo thật đều tay, đến khi được đổ vào sàng mà sàng lấy thuốc, (Xuyên sơn giáp...)
2. Sao Hoạt thạch; Văn cáp:
Áp dụng chó những chất dẻo, chất có dầu, nhựa để khỏi dính vào nhau hoặc bớt mùi tanh khét, và sau dễ tán (A giao, Lông nhím...)
3. Chích:
Tức là nướng dược liệu đã được tẩm mật (Cam thảo, Hoàng kỳ...) đến khi thấy thơm, khô là được.
4. Đốt rượu:
Áp dụng cho những dược liệu không chịu được sức nóng cao (nhung hươu và nai). Dùng cồn 90° đốt, hơ miếng nhung lên lửa để đốt cháy lông.
Làm như vậy không bị cháy sém, hơi rượu thấm nhung làm nhung thơm hơn, không gây tanh, bảo quản tốt.
5. Nung (Hà): Có nhiều cách nung:
a) Những loại kim thạch nung trong những vò đất, hay chảo gang đậy kín hay không đậy kín, xung quanh bên ngoài đốt lửa đến khi được lấy ra để nguội, hoặc nhúng vào một chất loãng khác (giấm, nước Hoàng liên) cho nguội (cách này còn gọi là Tôi)
Muốn trét được kín, dùng cám và lá khoai 2 thứ bằng nhau cho thêm chút nước, nghiền cho nhuyễn rồi trét (2 chất này trộn với nhau thành 1 chất chịu được nóng không bị nứt nẻ), lấy giấy bản đặt lên chỗ trét rồi thấm nước cho ướt.
Bằng sa, phèn chua, thường hầm không phải đậy kín, Thạch tín phải đậy kín (thăng hoa).
b) Đưa dược liệu trực tiếp vào lửa nóng (Thạch cao, Mẫu lệ, Thạch quyết minh...) để cho đỏ hồng.
- Số lượng ít thì bỏ thẳng vào lò than đỏ, trên lưỡi dao hoặc mảnh ngói.
- Số lượng nhiều hơn thì đặt dược liệu trên miếng sắt, úp 1 cái chảo lên.
- Số lượng nhiều hơn nữa thì cứ lượt trấu, lượt than, rồi lượt dược liệu và cứ thế cho đến hết, trên cùng phủ lớp trấu và than. Có thể đốt từ trên xuống hoặc từ dưới lên để cho cháy âm ỉ. Khi cháy gần hết rồi thì lấy dược liệu ra để nguội. Thấy dễ bẻ là được. Nung xong rồi, dược liệu được đem tán bột dùng hoặc thuỷ phi rồi dùng.
6. Lùi (Ổi):
Đưa thuốc vào tro nóng, không bén tới lửa, đến khi nóng chín thì lấy ra (Ổi khương, Cam thảo...) có khi dược liệu được bọc vào giấy thấm ướt hoặc bọc cám rồi mới dùi vào tro nóng, đến khi giấy hay cám khô là được (Cam thảo, Mộc hương...)
Phương pháp này có tác dụng là thu hút bớt 1 phần dầu trong dược liệu để giảm bớt tính kích thích.
7. Sấy (Bồi):
Dùng lửa nhỏ để sấy dược liệu cho khô ráo, hơi vàng ròn là được (Thuỷ nhiệt, manh trùng...)
IV - DÙNG CẢ LỬA VÀ NƯỚC
(Thuỷ hoả hợp chế)
Phối hợp lửa và nước để thay đổi tính chất của dược liệu.
1. Chưng:
Chế biến dược liệu bằng cách đun cách thuỷ có những mục đích sau:
- Làm chín vị thuốc để tiện việc bào mỏng, chế thuốc tễ.
- Thuốc chưng với rượu thường đổi chất thấy ngọt và thơm hơn, thêm sức ôn bổ, những vị đắng chát giảm đi, mùi tanh lợm mất đi, khí lạnh cũng bớt như (Thục địa, Đại hoàng...)
- Thuốc được chưng với rượu khi vào tỳ vị dễ đồng hoá, dễ hấp thụ, nên có tác dụng bồi bổ.
- Một số vị thuốc chưng với rượu, chất thuốc khó bị hư hỏng.
Xếp dược liệu vào trong cái cóng, đổ nước (hoặc tưới rượu) vào cho vừa đủ, đậy kín. Đặt cóng vào thùng hay chảo có nước ngập nửa cóng, dưới đáy cóng có lót miếng gỗ để cóng không sát vào thùng. Đun nhỏ lửa, thời gian chưng tuỳ từng vị thuốc và số lượng chưng (50kg Thục địa phải 35 giờ, Đại hoàng 18 giờ), cho vừa hết nước trong cái cóng.
Khi chưng xong rồi, đem phơi tái. Nếu còn nước dư trong cóng thì lấy mà tẩm cho hết. Làm như vậy 9 lần tức là "cửu chưng, cửu sát" (9 lần chưng, 9 lần phơi). Khi phơi lấy vải che để tránh ruồi, bụi.
2. Đồ (Hông):
Dược liệu có thể ngâm cho mềm để bào chế, dễ thái, nhưng ngâm lâu có thể mất chất, cho nên phải đồ, tức là dùng hơi nước làm mềm dược liệu. Thời gian đồ tuỳ theo số lượng, và tính chất của thuốc, loại mềm xốp, có hương vị thì thời gian đồ ít hơn. Đồ xong thường đem bào nóng thì dễ bào hơn.
Dụng cụ dùng là cái chõ, xếp dược liệu to xuống dưới, nhỏ lên trên, thời gian đồ không nên kéo dài nếu không dược liệu sẽ nát (Phục linh, Xuyên khung, Bạch truật).
3. Nấu:
Dùng 1 chất loãng (nước, dầu...) nấu dược liệu để làm mềm cho dễ bào chế và dễ làm giảm tính kích thích của vị thuốc, hoặc để làm tăng 1 số hiệu năng khác như nấu với dầu (Mã tiền), nước đậu đen (Hà thủ ô), nước thường (Hoàng tinh). Nước nấu thường ngập quá dược liệu 5-10 cm (nấu cao), hoặc gấp 10 lần dược liệu (Mã tiền).
Nấu khác với sắc, sắc là nấu đến 1 mức độ nào thì thôi.
V- CÁC CÁCH CHẾ KHÁC
1. Chế.
Một dược liệu qua nhiều chặng chế biến gọi là chế. Mỗi dược liệu có 1 cách chế riêng, phương pháp làm khá phức tạp như Hương phụ tử chế và thất chế, Hoàng nan chế.
2. Chế khúc
Dùng dược liệu tán nhỏ trộn với nước đóng thành bánh rồi sấy khô gọi là thuốc khúc Bán hạ khúc, Thần khúc...
3. Chế sương
Sương có nhiều nghĩa là những bụi mưa lún phún bay lưng chừng, nói về thuốc là những vị thuốc đã được chế biến tinh khiết thành bột mịn (Phê sương): Cho dược liệu vào cái bát rộng miệng (Thạch tín), úp cái bát khác nhỏ hơn, trét kín. Đốt ở ngoài, để dược liệu thăng lên và kết tinh vào lòng bát trên. Cạo lấy phấn.
Yêu cầu của việc bào chế thuốc phiến.
1. Dược liệu bào chế thuốc phiến phải chọn thứ tốt, to mập, để miếng thái, bào được to đẹp.
2. Sau khi đã qua các giai đoạn chọn lọc, rửa sạch (củ rễ, thân lá), ngâm ủ, đồ cho mềm thì đem ra thái bào. Độ dày của thuốc phiến chỉ nên 1-2 ly. Những thứ nhỏ vụn thì dùng làm thuốc hoàn toàn.
3. Khi tẩm sao thuốc phiến phải nhẹ nhàng, tránh vỡ nát, hao thuốc.
4. Khi bào thái, tránh rơi vãi xuống đất rồi nhặt lên, khi phơi để vào mẹt sạch, chỗ cao, xa nơi đi lại.
5. Thuốc phiến không nên để lâu, các thứ tẩm sao thì nên dùng đến đâu bào chế đến đó, để lâu, trong vòng từ 10 đến 15 ngày là cùng, cũng có thứ dùng đến đâu tẩm sao đến đấy.
6. Để trong thùng, lọ kín, nơi khô ráo, thỉnh thoảng đem phơi lại, để tránh ẩm mốc.
B- KỸ THUẬT SẮC THUỐC
Sắc thuốc có nghĩa là dùng 1 chất lỏng (nước, rượu...) đổ ngập dược liệu, đun sôi lên, chắt lấy nước để uống. Đông y gọi là thuốc thang.
Thuốc thang được dùng rộng rãi nhất, vì hấp thụ nhanh công hiệu cũng nhanh, mọi tật bệnh đều có thể dùng thuốc thang, nhất là bệnh mới cảm hoặc cấp tính.
Thuốc thang thường uống làm 2-3 lần trong ngày: trưa, chiều và tối.
Y Doãn (Thế kỷ XVII trước C.N) là người đầu tiên dùng phương pháp sắc thuốc lấy nước uống để trị bệnh.
1. Dụng cụ sắc thuốc và nước để sắc:
a) Dùng siêu bằng đất là tốt nhất, nhưng ngày nay có thể dùng ấm men hay nhôm, không được dùng đồ sắt, gang vì có nhiều dược liệu kỵ gang, sắt (chất chát, axit...) Siêu, ấm dùng không nên nhỏ quá, phải chứa được 1.5 lít nước.
b) Một cái rây nhỏ, đường kính 8-10 cm để lọc nước thuốc.
c) Nước dùng phải là nước nóng, sạch (nước mưa, nước máy, nước giếng), không dùng nước ao tù.
d) Sắc thuốc đun bằng củi, than củi là tốt nhất, nếu sắc nhiều phải xây lò đốt than quả bàng, để siêu trên 1 tấm gang, lót cát.
2. Kỹ thuật sắc thuốc.
Kỹ thuật sắc thuốc với công hiệu của thuốc rất quan trọng. Lý Thời Trân viết: "uống thuốc thang, dẫu phẩm chất thuốc tốt và bào chế đúng phép, nhưng sắc lỗ mãng, vội vàng, đun lửa không đúng mức thì thuốc cũng không công hiệu".
Sắc thuốc có 1 qui tắc nhất định, cần phải tuân theo, nhất là về mức độ lửa, nước và thời gian; tóm lại như sau:
Có 2 loại thuốc sắc: thuốc phát tán và thuốc bổ.
- Sắc thuốc phát tán: loại thuốc này phần nhiều lấy khí, cho nên dùng lửa to (ưu hoả) sắc nhanh, đổ ít nước (vừa đủ ngập dược liệu) sắc 1 lần, đun sôi độ nửa giờ.
- Sắc thuốc bổ: loại thuốc này cần lấy vị, cho nên phải dùng lửa nhỏ (vũ hoả); sắc chậm để chất thuốc đủ thì giờ thoát ra, đổ nhiều nước (ngập thuốc trên 2 đốt ngón tay), độ 3 bát nước 750 ml đun âm ỉ trong 2 giờ. Sắc 2 lần, cô lại 2 nước cho đến khi còn 1 bát độ 250 ml.
Các loại thuốc thơm: cần lấy khí vị cho nên khi sắc thuốc gần được mới bỏ vào sau (Bạc hà, Tử tô, Kinh giới, Quế chi).
Các loại Kim thạch (Thạch cao, Đại giả thạch, Thạch quyết minh...) tinh thuốc khó ra, cần phải giã nát rồi mới sắc.
Thuốc thang có A giao, Xuyên bối mẫu, Xuyên tam thất (tán bột), thì khi sắc được rồi, mới cho vào đánh tan ra rồi mới uống; có loại như Quế, Trầm, bắc Mộc hương mài với nước thuốc rồi uống (Xung phục).
Ma hoàng thì phải sắc trước, bỏ bọt, sau mới cho thuốc khác vào để sắc (Ma hoàng thang).
Ghi chú: Đối với thang thuốc trẻ em, dùng siêu bé hơn; số lượng nước thuốc lấy độ 1/2 hay 1/3 của người lớn.
Đối với thuốc Nam có nhiều lá, và cành nhỏ chỉ cần sắc 1 nước trong 1-2 giờ, lọc rồi cô lại, nhưng với rễ cứng, cành to thì vẫn nến sắc 2 lần.
Nếu tổ chức giã dập vụn được thuốc phiến rồi ngâm 1/2 giờ mới sắc thì thời gian chỉ bằng 1/2 thời gian sắc theo cổ điển, mà phẩm chất lại được tốt hơn.
3. Trách nhiệm chung trong vấn đề sắc thuốc.
Để thực hiện đúng đắn quy tắc sắc thuốc nói trên, để thuốc sắc có công hiệu thì:
a) Người kê đơn: phải ghi chú rõ ràng trong đơn thuốc. Thuốc phát biểu hay thuốc bổ, các vị cần sắc trước hay sắc sau.
b) Người bốc thuốc: phải gói riêng những vị kê trong đơn theo lời dặn của người kê đơn, để người sắc thuốc không lầm lẫn, và ghi ngoài thang thuốc đây là loại thuốc gì.
c) Người sắc thuốc: phải được học tập tác dụng của thuốc thang và quy tắc sắc thuốc để thấy tầm quan trọng của việc sắc thuốc mà tuyệt đối tuân theo kỹ thuật chuyên môn.
Phải theo dõi quá trình sắc thuốc, nhất là khi thuốc đang sôi, (giờ cao điểm) phải có mặt tại chỗ và thỉnh thoảng đảo dược liệu trong ấm lên xuống, nêu không thuốc sẽ bị trào hoặc bị cháy.
Phải có biện pháp chống lầm lẫn cụ thể để tránh thang thuốc của người này lại đưa cho người khác.
C- THUỐC CAO NƯỚC
Thuốc cao nước là những thuốc dùng nước để nấu thảo mộc rồi cô lại đến mức độ nhất định.
Bào chế dạng thuốc này phải qua 3 giai đoạn: giai đoạn đầu nấu lấy nước, giai đoạn hai cô lại các nước nấu, giai đoạn cuối thêm đường hay mật hoặc rượu để làm ra thành phần.
Dược liệu dùng phải chế biến (thái, bào, sao, tẩm...) theo yêu cầu từng loại. Số lượng nước dùng không quá số lượng cần thiết để rút hoạt chất, thường gấp 4 đến 6 lần trọng lượng dược liệu vì nếu dùng nhiều nước quá thì thời gian cô phải kéo dài, sức nóng và không khí làm hỏng phẩm chất thuốc.
Thời gian đun cũng tuỳ theo dược liệu: thân rễ cứng 6-8 giờ, lá cành nhỏ 4-6 giờ cho 1 lần nấu 20 kg dược liệu.
Khi cô, hoặc khi cô gần được phải cô cách thuỷ ở nhiệt độ thấp (đối với loại cao đặc).
Dụng cụ dùng nấu cao thường là thùng nhôm hoặc đồng không nên dùng đồ sắt, gang.
Đông y chia các dạng cao nước ra làm 2 loại:
1. Cao lỏng: 1ml nước cao tương ứng với 1g hay 4-5g dược liệu khô, có khi đến 10g.
2. Cao đặc: có độ đặc sền sệt (ít dùng).
Cao lỏng: bảo quản rất khó, thường bằng mật, đường hay rượu với 1 số lượng tuỳ theo tính chất của dược liệu, đóng gói từng liều nhỏ, đựng trong lọ nút kín, đã được tiệt trùng.
Đông y rất thường dùng cao nước để trị bệnh mãn tính, làm thuốc bổ.
Nấu cao nước rất phức tạp, tuỳ theo từng bài mà bào chế cho thích hợp. Dưới đây, xin giới thiệu bào "cao Trâu cổ" để làm điển hình.
Thành phần:
Trâu cổ 20 kg
Đậu đen tồn tính 4 kg
Đường cát trắng 3.2 kg
Rượu đế 4 lít
Nước vừa đủ
Điều chế:
Thân Trâu thái nhỏ, mỏng rửa sạch phơi khô cho vào thùng cài phên để khỏi bồng. Đổ nước ngập dược liệu trên 10 cm, đun sôi.
Đậu đen: Đổ ngập nước đun sôi đến nhừ mềm, lọc qua vải thưa, lấy nước tiếp vào thùng Trâu cổ. Đun sôi đều lửa trong 6 giờ thỉnh thoảng thêm nước sôi cho đủ mức nước cũ và đảo dược liệu trong thùng, chắt lấy nước, lọc qua vải, để lắng 3-4 giờ, gạn lấy nước thứ nhất. Cô dần nước này lại. Bã còn lại, đổ ngập nước sôi đun trong 4 giờ: chắt, lọc, để lắng, gạn lấy nước thứ 2.
Dồn 2 nước lại, lấy ra 2 lít để riêng, rồi đem cô chỗ còn lại cho đến khi còn 4 lít cao nước (1ml = 5g dược liệu thô).
Lấy 2 lít nước cao đã để riêng cho vào nồi nhôm khác, cho 3.2 kg đường kính vào, đun sôi, quấy cho tan, lọc kỹ. Lấy nước đường này cho vào 4 lít cao nước nói trên, để nguội rồi pha vào 4 lít rượu trắng. Để lắng. Thành phẩm: 10 lít.
Đóng vào chai 120ml (đã tiệt trùng), gắn sáp. Dán nhãn. Để nơi râm mát.
D- THUỐC HOÀN
Thuốc hoàn là 1 dạng thuốc làm bằng dược liệu tán mịn và chất dính vê thành viên hoặc nén thành viên dẹt.
Những bài thuốc có vị độc (Thạch tín, Hùng hoàng, Hoàng nàn...) hoặc có chất thơm không sắc được và dùng để trị bệnh suy nhược mãn tính thì phải bào chế dạng thuốc hoàn.
Thuốc hoàn có những thuận lợi sau đây:
1. Thuốc tan chậm do đó thuốc ngấm dần làm cho thuốc có tác dụng trị bệnh mãn tính (hoàn có nghĩa là hoãn sự thẩm hút).
2. Làm dễ uống đối với các vị thuốc có mùi vị khó chịu (A nguỳ, Hắc phàn...)
3. Thuốc uống đúng liều lượng.
4. Có thể đưa thuốc xuống tận ruột, tránh tác dụng phá huỷ của dịch vị.
5. Thuốc ít bị ảnh hưởng của không khí và hơi nước nên dễ bảo quản hơn thuốc tán.
Thành phần thuốc hoàn:
a) Dược liệu, thường là thảo mộc, động vật, thuốc cao đặc hoặc khô, hoá dược...
b) Tá dược là những chất không làm ảnh hưởng tới thuốc và còn có tác dụng làm tăng tính chất chữa bệnh của thuốc. Tá dược thay đổi tuỳ theo tính chất của dược liệu và thường trong công thức có ghi rõ dùng tá dược nào. Tá dược thường dùng là mật, bột nếp, nước, cao động vật...
Nếu trong bài thuốc có sẵn mật, đường thì dĩ nhiên ta lấy những vị này để làm tá dược.
Dụng cụ làm thuốc hoàn:
1. Thuyền tán: hiện nay có nhiều cải tiến để tăng năng suất và giảm sức lao động, được vệ sinh hơn. Tán nhiều thì dùng máy tán. Máy tán bằng bi có độ mịn cao nhất.
2. Rây: loại mua ở chợ chưa đáp ứng được yêu cầu độ mịn, dùng rây ngoại số 22 thì tốt.
3. Thúng lắc: nên làm bằng nhôm, nhẹ và vệ sinh.
4. Sàng: làm bằng giang để chọn lọc độ to nhỏ của viên thuốc theo yêu cầu: ít nhất là có 2, 3 cỡ.
5. Cối chày: bằng đá để giã nhuyễn.
6. Bàn chia viên: để lăn và cắt thành viên. Cần có nhiều cỡ bàn 0.10-0.20g.
7. Ống in viên: viên này hình dẹt 0.50-1-2g.
8. Máy vo viên: thay thúng lắc để làm viên nhỏ 0.10-0.15g.
9. Máy làm viên mềm: thay cho bàn lăn và ống in viên.
10. Máy nén viên: kiểu Trung Quốc, cỡ viên 0.20-0.50g.
11. Tủ sấy: bằng điện hoặc đốt than, nhiệt độ 60°-100°.
Cách bào chế
Dược liệu được dùng nhiều nhất là thuốc phiến đã được sao tẩm theo yêu cầu của bài thuốc, sấy nhẹ cho khô rồi tán riêng hoặc tán chung, rây thật mịn rồi trộn đều với tá dược làm viên. Cách làm thường chia mấy loại tuỳ theo tính chất của tá dược.
1. Thuốc hoàn mật: Thường dùng mật ong vì bảo quản tốt, hơn nữa mật ong đã có sẵn chất dinh dưỡng hơn các mật khác. Mật ong nên chọn thứ trong, trắng, đặc: loại sắc đỏ thẫm hoặc có lẫn xác ong non thì không nên dùng vì dễ làm hỏng thuốc. Mật ong đã được chọn, đun nhanh cho sôi bồng, vớt bỏ bọt, (nếu để bọt, viên thuốc dễ bị mốc và mọt), cô lại bằng cách thuỷ, đến khi nhỏ 1 giọt nước lạnh không tan là được. Cô xong, trộn dần với bột thuốc trong cối đá, giã nhuyễn và dẻo, đến khi không dính chày cối là được. Dùng bàn chia viên hay ống in viên cỡ từ 0.50g đến 1-2g. Sấy khô ở nhiệt độ 60-80° (ví dụ bài số 1).
Thuốc hoàn mật dùng trị bệnh suy nhược mãn tính và dùng lâu.
2. Thuốc hoàn hồ: Hồ thường dùng là bột gạo nếp: cho nước vào, đun sôi quấy đều thành hồ.
Hồ loãng thì cứ 1kg bột thuốc dùng 20-30g bột gạo đun với 800-900ml nước, để thuốc chóng tiêu, hồ đặc thì cứ 1kg bột thuốc dùng 50g bột đun với 600ml nước để cho thuốc chậm tiêu (hồ này ít dùng): hồ lỏng quá thì viên thuốc chóng rời rã, hồ đặc quá, viên thuốc cứng rắn, khó tiêu. Được hồ rồi, lấy 1 ít bột dược liệu trộn với ít nước hồ cho hơi mềm rồi xát qua sàng thưa để làm hạt gây con: sấy khô. Cho hạt này vào thùng nhôm vẩy nước hồ, lắc tròn rồi lần lượt cho bột, nước hồ, lắc tới khi đạt được cỡ viên yêu cầu. Phải dùng sàng để loại viên cỡ bé và cỡ to quá, bé thì lắc lại, to thì phá đi làm lại (ít xảy ra). Loại viên này to bằng hạt đậu xanh hay bằng hạt ngô (0.10-0.15g).
Dùng hồ làm hoàn khi bài thuốc không có đường mật, cao động vật, hoặc dược liệu không có đủ chất dính (bài số 2).
3. Thuốc hoàn nước: Dùng nước làm hoàn phải có điều kiện cốt yếu là dược liệu có sẵn chất dinh dưỡng, và trong bài thuốc không có mật, đường cao động vật... nếu có những vị này thì pha loãng ra với nước mà lắc viên (đối với mật thì đun sôi vớt bỏ bọt).
Số lượng nước dùng để rẩy lên bột từ 80% đến 90% (thuốc Nam) và từ 40% đến 50% (thuốc Bắc) so với bột dược liệu. Làm viên bằng thùng lắc (bài số 3).
Thuốc hoàn nước có đặc điểm dễ tan hơn thuốc hoàn mật, hay hồ, dùng để chữa các bệnh cấp tính và ở thượng tiêu, nhưng khó bảo quản vì dễ nát và mốc.
Thuốc hoàn nước còn có thể dùng máy để nén viên 0.30g hay 0.50g. Muốn dùng máy làm viên nén, phải có mấy điều kiện sau đây:
- Bột dược liệu phải có chất dính (nếu không phải dùng hồ loãng).
- Bột dược liệu rẩy qua nước hoặc hồ loãng cho ẩm rồi xát qua sàng để làm cốm, sấy khô rồi mới cho vào máy nén (bài số 4).
- Nếu bột xốp quá, có nhiều tinh dầu, dù có thêm hồ loãng mà không nén được thì phải dùng cách lắc thúng.
4. Làm thuốc viên từ cao khô. Các loại thuốc viên trên đây có nhược điểm là có nhiều xơ, làm viên thuốc không mịn và không có tác dụng, nhất là trẻ em uống vào thêm nặng bụng khó tiêu: ta nên cải tiến các loại thuốc hoàn bằng cách nấu dược liệu thành cao khô, tán bột, rồi dập viên hoặc là nấu dược liệu chế thành cao sền sệt rồi trộn thêm 1 tá dược thích hợp (bột gạo tẻ,... hoặc 1 thứ bột nào khác có trong thành phần các bài thuốc như Hoài sơn...) sấy cho vừa khô, sát cốm rồi đập viên.
5. Cách chia viên: Thuốc hoàn dùng trị bệnh ở thượng tiêu (tim, phổi) ở hạ tiêu (gan, thận) thường làm viên cỡ 0.10g dùng trị bệnh trung tiêu (tỳ, vị) thì làm viên cỡ 0.20g trở lên.
Đối với thuốc có vị độc thì viên bằng hạt vừng, nếu bài thuốc chỉ có 1-2 vị, bằng hạt đậu xanh, nếu bài thuốc có 3-4 vị.
Áo viên thuốc:
Sau khi thuốc đã được chia thành viên với thúng lắc hoặc máy vo viên, Đông y thường "áo" viên thuốc lại mục đích để:
- Viên thuốc giữ được hương vị trong lần áo đó.
- Viên thuốc để được lâu.
- Viên thuốc được đẹp hơn, màu sắc được đồng đều.
- Đưa viên thuốc đến tận ruột (nếu cần).
Tá dược dùng để áo thường là lựa chọn vị thuốc có trong công thức như Thục địa, Dây tơ hồng, Hoạt thạch, Hùng hoàng, Chu sa, hoặc là dược liệu có lông gây ngứa không dùng bột được (Kim anh tử...). Dược liệu dùng để áo phải có mấy điều kiện sau đây:
- Dễ nấu thành cao lỏng hoặc dễ tán mịn;
- Có màu sắc đẹp;
- Để lâu không bị mốc (bài số 5).
Muốn áo thuốc, thì dùng thùng lắc hoặc máy vo viên.
Tóm lại, trên đây là mấy phương pháp căn bản làm thuốc hoàn thường dùng tại Viện Đông y, kỹ thuật bào chế từng bài thường hay thay đổi tuỳ theo tính chất của dược liệu trong công thức, không thể trình bày hết được. Từng bài nói chung phải thử xem có thích ứng với tá dược nào, với dụng cụ nào, sau đó mới làm hàng loạt được.
Làm thuốc hoàn phải chú ý vệ sinh dụng cụ, tránh ruồi nhặng nên dùng cách sấy hơn là phơi nắng, tránh bụi bặm, thành phẩm phải đóng gói vào chai lọ sạch sẽ gắn xi, sáp, để chỗ mát.
PHÒNG DƯỢC LIỆU - VIỆN ĐÔNG Y